MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. KHÁI QUÁT VỀ DÂN SỐ 1
1.1. Dân số và sự gia tăng dân số 1
1.1.1. Gia tăng tự nhiên 1
1.1.2. Gia tăng cơ học 3
1.1.3. Gia tăng dân số 3
1.2. Gia tăng dân số trên thế giới và Việt Nam. 3
1.2.1. Gia tăng dân số thế giới 3
1.2.2. Gia tăng dân số Việt Nam 4
II. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ LÊN TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
2.1. Mối tưong quan giữa dân số, tài nguyên và môi trường 5
2.1.1. Công thức chung 5
2.1.2. Tóm tắt các ảnh hưởng 7
2.2. Các tác động cụ thể 8
2.2.1. Cạn kiệt tài nguyên 8
2.2.1.1. Cạn kiệt tài nguyên đất 9
2.2.1.2. Cạn kiệt tài nguyên nước 11
2.2.1.3. Suy giảm tài nguyên rừng, đa dạng sinh học 14
2.2.2. Ô nhiễm môi trường 15
2.2.2.1. Ô nhiễm không khí 18
2.2.2.2. Ô nhiễm nước 20
2.2.2.3. Ô nhiễm môi trường đất 22
2.3. Chất lượng cuộc sống giảm 24
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ, MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 28
3.1. Tổng quan về phát triển bền vững 28
3.2. Mối quan hệ giữa dân số, môi trường và phát triển bền vững 30
3.3. Dân số, môi trường và phát triển bền vững ở nước ta 32
41 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2934 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ dân số - môi trường - phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân 100.000 ha/năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975 – 1990: Mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000 ha/năm. Nguyên nhân chính làm mất rừng ở giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu.
Trung bình mỗi năm nước ta chỉ trồng được trên 72.000 ha rừng, trong khi tỉ lệ mất rừng hiện nay từ 120.000 đến 150.000 ha/năm. Không chỉ người dân lén lút phá rừng mà các xí nghiệp thực hiện việc khai thác theo chỉ tiêu pháp lệnh thường thực hiện quá chỉ tiêu cho phép.
Rừng bị mất đi gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với đất và nước. Đất bị xói mòn, thoái hoá tới mức cây trồng không cho năng suất, đất bị bỏ hoang, ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm nghiệp. Bên cạnh đó, mất rừng còn làm giảm đa dạng sinh học, gây mất cân bằng sinh thái và con người phải nhận hậu quả về thiên tai , lũ lụt do không có rừng bảo vệ.
Cùng với rừng, đa dạng sinh học cũng đóng vai trò quan trọng đối với con người và thiên nhiên. Từ nhiều thập kỷ nay, hoạt động của con người đã tác động mạnh tới thế giới sinh vật, được xem là tương đương hoặc thậm chí lớn hơn nhiều so với các đợt tuyệt chủng lớn nhất trong thời tiền sử. Hơn 11.000 loài động vật và thực vật hiện đang đứng trước nguy cơ bị tiệt chủng, 12% loài chim, 25% loài động vật có vú, 32% loài lưỡng cư v.v... đang có nguy cơ tuyệt chủng, khoảng 1/3 dải san hô sẽ biến mất trong vòng 30 năm tới. Tốc độ giảm đa dạng sinh học do hoạt động của con người trong 50 năm qua nhanh hơn bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử và số loài động thực vật tuyệt chủng trong 100 năm qua đã tăng cao gấp 1.000 lần. Trữ lượng cá trên thế giới đã giảm tới 90% so với thời kỳ bắt đầu khai sinh ngành công nghiệp đánh cá. Các loài cá nước ngọt đang bị đe doạ tuyệt giống với khoảng 20% của chúng ở 20 nước đã được IVCN-Sách Đỏ của Liên Minh Bảo tồn Thế giới đánh giá một cách toàn diện. Vào khoảng 35% các loài rùa cũng bị đe doạ như vậy.
Việt Nam là nước có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ 10 thế giới nhưng tốc độ suy giảm được xếp vào loại nhanh nhất. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên bị xâm phạm, suy giảm diện tích. Trong không đầy 50 năm, diện tích rừng ngập mặn suy giảm gần 3/4. Sự giảm sút nhiều loài động vật trên đồng ruộng đã làm mất căn bằng sinh thái, dẫn đến bùng phát dịch bệnh. Hiện Việt Nam còn trên 800 loài động vật và thực vật hiếm, có nguy cơ bị tuyệt chủng, dễ bị tổn thương hay đang bị đe dọa.
Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi chất lượng môi trường theo chiều hướng tiêu cực đối với mục đích sử dụng môi trường. Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn MT. Chất gây ô nhiễm là những nhân tố làm cho MT trở thành độc hại.
Môi trường đất, nước, không khí bị ô nhiễm bởi các loại chất thải do hoạt động cuả con người. Dân số càng tăng thì mức độ ô nhiễm càng cao và chính con người là chủ thể tạo ra ô nhiễm do các hoạt động của mình.
Rác thải, nước thải và các khí thải từ các khu dân cư, nhà máy công sở, trường học, bệnh viện hàng ngày làm cho môi trường ngày càng xấu đi. Trong các loại chất thải, có nhiều chất rất độc, khó hay không bị phân hủy sinh học.
Một ví dụ, ở Thái Lan có 80 ngàn nhà máy, trong đó có 20 ngàn nhà máy nằm ở Bangkok và các thành phố lân cận. Các chất thải độc hại năm 1986 là 1,2 triệu tấn. Tính đến năm 2001, lượng chất thải sẽ tăng lên 6 triệu tấn/năm.
Mưa acid, mỏng màn ozon, thay đổi khí hậu toàn cầu là hậu quả đáng ngại của sự phát triển của xã hội loài người. Cùng với ô nhiễm nước, đất và không khí chúng kìm hãm và đe doạ sự phát triển của con người.
Bảng 2.3. Lượng các tác nhân ô nhiễm trên toàn thế giới năm 1992
(Đơn vị: triệu tấn)
Nguồn gây ô nhiễm
Tác
Nhân
ô nhiễm
chính
CO
Bụi
SO4
CnHm
NOx
1.Giaothôngvậntải
-Ôtô chảy xăng
53,5
0,5
0,2
13,8
6,0
-Ôto chảy dầu diezen
0,2
0,3
0,1
0,4
0.5
-Máy bay
2,4
0,0
0,0
0,3
0,0
-Tàu hỏa và các loại khác
2,0
0,4
0,5
0,6
0,8
Cộng
58,1
1,2
0,8
15,1
7,3
2.Đốt nhiên liệu
-Than
0,7
7,4
18,3
0,2
3,6
-Dầu,xăng
0,1
0,3
3,9
0,1
0,9
-Khí đốt tự nhiên
0,0
0,2
0,0
0,0
4,1
-Gỗ,củi
0,9
0,2
0,0
0,4
0,2
Cộng
1,7
8,1
22,2
0,7
8,8
3.Quá trình sản xuất công nghiệp
8,8
6,8
6,6
4,2
0,2
4.Xử lý chất thải rắn
7,1
1,0
0,1
1,5
0,5
5.Hoạt động khác
-Cháy rừng
6,5
6,1
0,0
2,0
1,1
-Đốt cácsản phẩm
7,5
2,2
0,0
1,5
0,3
-Đốt rác thải
1,1
0,4
0,5
0,2
0,2
-Hàn đốt xây dựng
0,2
0,1
0,0
0,1
0,0
Cộng
15,3
8,8
0,5
3,8
1,6
Nguoàn gaây oâ nhieãm
Taùc
Nhaân
oâ nhieãm
chính
CO
Buïi
SO4
CnHm
NOx
1.Giaothoângvaäntaûi
-OÂtoâ chaûy xaêng
53,5
0,5
0,2
13,8
6,0
-OÂto chaûy daàu diezen
0,2
0,3
0,1
0,4
0.5
-Maùy bay
2,4
0,0
0,0
0,3
0,0
-Taøu hoûa vaø caùc loaïi khaùc
2,0
0,4
0,5
0,6
0,8
Coäng
58,1
1,2
0,8
15,1
7,3
2.Ñoát nhieân lieäu
-Than
0,7
7,4
18,3
0,2
3,6
-Daàu,xaêng
0,1
0,3
3,9
0,1
0,9
-Khí ñoát töï nhieân
0,0
0,2
0,0
0,0
4,1
-Goã,cuûi
0,9
0,2
0,0
0,4
0,2
Coäng
1,7
8,1
22,2
0,7
8,8
3.Quaù trình saûn xuaát coâng nghieäp
8,8
6,8
6,6
4,2
0,2
4.Xöû lyù chaát thaûi raén
7,1
1,0
0,1
1,5
0,5
5.Hoaït ñoäng khaùc
-Chaùy röøng
6,5
6,1
0,0
2,0
1,1
-Ñoát caùcsaûn phaåm
7,5
2,2
0,0
1,5
0,3
-Ñoát raùc thaûi
1,1
0,4
0,5
0,2
0,2
-Haøn ñoát xaây döïng
0,2
0,1
0,0
0,1
0,0
Coäng
15,3
8,8
0,5
3,8
1,6
Ô nhiễm môi trường làm cho chất lượng môi trường nói chung xuống cấp. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh thường dẫn đến ô nhiễm các thành phần môi trường như nước, đất và không khí…nhiều vấn đề vệ sinh môi trường phức tạp đã phát sinh ở các khu vực thành thị.
Năm 1950, cứ 3 người thì có gần một người sống ở thành phố hay thị trấn. Hiện nay, gần nửa dân số thế giới sống ở đô thị. Đến năm 2030, tỷ lệ này sẽ là hơn 60%. Trong một phần tư thế kỷ tới, tăng dân số hầu hết diễn ra ở các đô thị thuộc các nước kém phát triển. Tăng dân số nhanh nhất sẽ diễn ra ở các đô thị có số dân dưới 500.000 người chứ không phải là các thành phố lớn hơn.
Năm 2000, thế giới có 402 thành phố với số dân từ 1 đến 5 triệu người; và 22 thành phố có số dân từ 5 đến 10 triệu người. Năm 1950, New York là thành phố duy nhất có số dân hơn 10 triệu. Đến năm 2015, có 23 thành phố như New York, trong đó 19 thành phố ở các nước đang phát triển.Tại các nước phát triển hơn, 75% dân số sống trong đô thị. Ở châu Á, tỷ lệ này là dưới 40%, nhưng số dân đô thị của cả khu vực này là 1,5 tỷ người, nhiều hơn châu Âu, Châu Mỹ La tinh, châu Đại dương và Bắc Mỹ cộng lại. Châu Phi là châu lục có tốc độ đô thị hoá thấp nhất, song dân số đô thị tăng nhanh nhất.
Đô thị hoá và phát triển kinh tế thường đi đôi với mức tiêu thụ tài nguyên và tỷ lệ phát sinh chất thải tính theo đầu người tăng lên. Dân thành thị ở các nước phát triển phát sinh chất thải nhiều hơn các nước đang phát triển 6 lần.
Dân số và lượng rác tỷ lệ thuận với nhau, tuy với hệ số rất cao. Theo một nghiên cứu thì tỷ lệ tăng dân số (tự nhiên) khoảng 2%/năm, trong khi tỷ lệ tăng rác lại đến 30-40%/năm, như vậy có thể xác định dân số cứ tăng 1% thì lượng rác tăng tương ứng 15-20% (cách tính trên chưa xét đến yếu tố tăng dân số cơ học). Các thành phố có thể phải chi đến hơn 30% ngân sách để tiêu huỷ chất thải, chủ yếu chi phí cho việc vận chuyển. Các khoản chi này thường đội lên rất nhiều do diện tích đất thích hợp bị thu hẹp khi mà các khu đô thị mở rộng và giá đất tăng lên. Chi phí quản lý chất thải rắn ở các nước đang phát triển có thể lên tới 50% ngân sách hàng năm. Ngoài ra, còn thiếu cơ sở hạ tầng để xử lý an toàn chất thải. Khoảng 30% đến 60% lượng chất thải rắn đô thị không được thu gom và chỉ có dưới 50% dân số đô thị được cung cấp dịch vụ thu gom.
2.2.2.1. Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các chất trong khí quyển sinh ra từ hoạt động của con người hoặc các quá trình tự nhiên và nếu nồng độ đủ lớn và thời gian đủ lâu, chúng sẽ ảnh hưởng đến sự thoải mái, dễ chịu, sức khỏe hoặc lợi ích của con người hoặc môi trường.
Các hoạt động của con người gây ô nhiễm không khí chính là ô nhiễm do đốt nhiên liệu và do các phát triển cá ngành công nghiệp.
Quá trình đốt nhiên liệu xảy ra ở khắp mọi nơi. Trong sản phẩm cháy do nhiên liệu sản sinh ra khi cháy có chứa nhiều loại khí độc hại cho sức khỏe con người, nhất là khi quá trình cháy không hoàn toàn. Các loại khí độc hại đó là: SO2, CO2, NOX, hydrocacbon và tro bụi. Người ta phân biệt các nguồn gây ô nhiễm do đốt nhiên liệu thành các nhóm: Các phương tiện giao thông; Do đun nấu; Các nhà máy nhiệt điện; Do đốt các loại phế thải đô thị và sinh hoạt (rác thải).
Ô nhiễm do các ngành công nghiệp: công nghiệp gang thép, luyện kim màu, công nghiệp sản xuất ximăng, công nghiệp hóa chất, công nghiệp lọc dầu.
Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau, làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Hàng năm có: 20 tỉ tấn cácbon điôxít,1,53 triệu tấn SiO2, Hơn 1 triệu tấn niken, 700 triệu tấn bụi, 1,5 triệu tấn asen, 900 tấn coban, 600.000 tấn kẽm (Zn), hơi thuỷ ngân (Hg), hơi chì (Pb) và các chất độc hại khác.
Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO2, NOX, CH4, CFC đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là 13%, ozon tầng đối lưu là 7%, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%.
Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiẹt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60°C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30°C.
Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40°C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50°C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ozone. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ozon. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ozon sẽ bị mỏng dần rồi thủng, không còn làm tròn trách nhiệm của một tấm lá chắn bảo vệ mặt đất khỏi bức xạ UV-B, làm cho lượng bức xạ UV-B tăng lên, gây hậu quả xấu cho sức khoẻ của con người và các sinh vật sống trên mặt đất.
2.2.2.2. Ô nhiễm nước
Sự ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước gây ảnh hưởng đến hoạt động sống bình thường của con người và sinh vật. Khi sự thay đổi thành phần và tính chất của nước vượt quá một ngưỡng cho phép thì sự ô nhiễm đã ở mức nguy hiểm và gây ra một số bệnh ở người.
Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước hầu hết là do hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người tạo nên như: nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải nông nghiệp thường cuốn theo chất rắn, chất hữu cơ, thuốc trừ sâu, phân bón... gây ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm nước ngầm, nước biển…
Dấu hiệu đặc trưng của nguồn nước bị ô nhiễm:
Có xuất hiện các chất nổi trên bề mặt nước và các cặn lắng chìm xuống đáy nguồn.
Thay đổi tính chất lý học (độ trong, màu, mùi, nhiệt độ…)
Thay đổi thành phần hoá học (pH, hàm lượng của các chất hữu cơ và vô cơ, xuất hiện các chất độc hại…)
Lượng oxy hoà tan (DO) trong nước giảm do các quá trình sinh hoá để oxy hoá các chất bẩn hữu cơ vừa mới thải vào.
Các vi sinh vật thay đổi về loài và về số lượng. Có xuất hiện các vi trùng gây bệnh.
Nguồn nước bị ô nhiễm có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thuỷ sinh vật và việc sử dụng nguồn nước vào mục đích cấp nước hoặc mỹ quan của thành phố. Khối lượng lớn nước thải này đang và sẽ làm nhiều nguồn nước trên phạm vi cả nước ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là các sông, hồ trong các đô thị lớn.
Tình trạng ô nhiễm nước trên thế giới
Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với nhịp độ đáng lo ngại. Tiến độ ô nhiễm nước phản ánh trung thực tiến bộ phát triển kỹ nghệ. Sau đây là vài thí dụ tiêu biểu:
Anh Quốc: Đầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Nó trở thành ống cống lộ thiên vào giữa thế kỷ này. Các sông khác cũng có tình trạng tương tự trước khi người ta đưa ra các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
Nước Pháp rộng hơn, kỹ nghệ phân tán, nhiều sông rộng lớn, nhưng vấn đề cũng không khác bao nhiêu. Cuối thế kỷ 18. các sông lớn và nước ngầm nhiều nơi không còn dùng làm nước sinh hoạt được nữa, 5.000 km sông của Pháp bị ô nhiễm mãn tính.
Hoa Kỳ: Vùng Đại hồ bị ô nhiễm nặng, trong đó hồ Erie, Ontario đặc biệt nghiêm trọng.
Mới đây ngày 13/1/2005, vụ nổ nhà máy hóa dầu ở thành phố Cát Lâm (Trung Quốc) gây ô nhiễm sông Tùng Hoa với chất benzen, mức độ ô nhiễm dầu gấp 50 lần mức độ cho phép.
Tình trạng ô nhiễm nước ở Việt Nam
Nước ta có nền công nghiệp chưa phát triển mạnh, các khu công nghiệp và các đô thị chưa đông lắm nhưng tình trạng ô nhiễm nước đã xảy ra ở nhiều nơi với các mức độ nghiêm trọng khác nhau.
Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất, dùng để tưới lúa và hoa màu, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng. Việc sử dụng nông dược và phân bón hoá học càng góp thêm phần ô nhiễm môi trường nông thôn.
Công nghiệp là ngành làm ô nhiễm nước quan trọng, mỗi ngành có một loại nước thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên thải nước biến Sông Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục cây số. Khu công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn mét khối nước thải của nhà máy hoá chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt… xuống Sông Hồng làm nước bị nhiễm bẩn đáng kể. Khu công nghiệp Biên Hoà và TP.HCM tạo ra nguồn nước thải công nghiệp và sinh hoạt rất lớn, làm nhiễm bẩn tất cả các sông rạch ở đây và cả vùng phụ cận.
Nước dùng trong sinh hoạt của dân cư ngày càng tăng nhanh do tăng dân số và các đô thị. Nước cống từ nước thải sinh hoạt cộng với nước thải của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng ô nhiễm của các đô thị ở nước ta.
Các loại nước thải hầu hết đều được trực tiếp thải ra môi trường, chưa qua xử. Theo số liệu thống kê, hàng năm có khoảng hơn 500 tỷ m3 nước thải (trong đó phần lớn là nước thải công nghiệp) thải vào các nguồn nước tự nhiên và cứ sau 10 năm thì chỉ số này tăng gấp đôi. Khối lượng nước thải này đã làm ô nhiễm hơn 40% lưu lượng nước ổn định của các dòng sông trên trái đất.
Ở nhiều đoạn sông, kênh rạch đã bị bẩn vượt quá tiêu chuẩn cho phép, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống, đến các hệ sinh thái nước ngọt. Ví dụ khu vực Hà Nội nước các sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu... rất bẩn, màu sẩm, mùi thối, tanh, hàm lượng ôxy hòa tan rất thấp nhiều khi bằng 0, lượng BOD5 cao trên 50mg/l, NH4+ trên 10mg/l, NO2- cũng tăng vọt, H2S gần 30mg/l. ở khu vựcthành phố Hồ Chí Minh nước kênh Tham Luông màu đen xẫm, thối, chất hữu cơ cao COD có khi tới 596 mg/l, BOD5 184,5mg/l. Hàm lượng oxy hòa tan thường bằng 0. Nước sông Sài Gòn có hàm lượng CO2 giảm, NH4+ tăng sau khi nhận nước của kênh Tham Luông và rạch Thị Nghè, kênh Bến Nghé. ở khu Lâm Thao - Việt Trì trong mùa cạn nhánh sông chảy qua khu vực thành phố và các nhà máy bị nhiễm bẩn nặng, độ pH quá thấp (4,0) độ axit tự do lớn, hàm lượng sắt, chất hữu cơ, NH4+, NO2- tăng cao.
2.2.2.3. Ô nhiễm đất
Các nhà khoa học môi trường thế giới đã cảnh báo rằng: cùng với ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai cũng là vấn đề đáng báo động hiện nay, đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hoá học. Ô nhiễm đất không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và chất lượng nông sản, mà còn thông qua lương thực, rau quả... ảnh hưởng gián tiếp tới sức khoẻ con người và động vật.
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất đến từ nông dược và phân hoá học, chúng tích luỹ dần trong đất qua các mùa vụ. Thứ hai là các loại chất thải trong hoạt động của con người (rắn, lỏng, khí). Thứ ba, đất cũng là một yếu tố của môi trường cùng với không khí, nước và vành đai sinh vật, nên nó tiếp nhận những chất ô nhiễm từ các yếu tố khác mọi nơi, mọi lúc. Ngoài ra, các vùng khai thác khoáng sản kim loại thường tạo thành một khu vực khuếch tán, khiến cho hàm lượng nguyên tố này trong vùng đất xung quanh cao hơn nhiều so với đất thông thường, đây cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất.
Ô nhiễm đất vì nước thải
Nguyên nhân là không biết cách lợi dụng một cách khoa học các loại nước thải để tưới cho cây trồng. Sử dụng hợp lý nguồn nước thải tưới đồng ruộng sẽ tận dụng được lượng Nitơ, Photpho, Kaki... trong nước, có lợi cho cây trồng. Nhưng nếu như nước ô nhiễm chưa qua xử lý cần thiết, tưới bừa bãi, thì có thể đưa các chất có hại trong nguồn nước vào đất gây ô nhiễm.
Việc lợi dụng nước thải để tưới ruộng gây ô nhiễm đất, ảnh hưởng tới người và gia súc có ở mọi quốc gia. Sự kiện “Cadimi” xảy ra ở Nhật Bản năm 1955 là một ví dụ. Nông dân ở vùng núi Phú Sĩ một thời gian dài đã sử dụng nước thải của một nhà máy luyện kẽm gần đó để tưới ruộng, Cadimi chứa trong nước thải tích luỹ dần trong lúa gạo ở khu vực này. Hậu quả là những người nông dân bị chứng đau nhức các khớp xương, 34 người chết, 280 người tàn phế. Theo một điều tra nông thôn Nhật Bản, năm 1970, diện tích đất ô nhiễm do nước ở Nhật là 190.000 ha, làm thiệt hại 22 tỷ Yên.
Trong những năm 70, nông dân Ấn Độ cũng sử dụng tràn lan các nước thải thành thị chưa qua xử lý để tưới ruộng, khiến cho khả năng sản xuất của đất giảm, gây hại tới sức khoẻ nông dân. Theo một báo cáo, tỷ lệ nhiễm các bệnh về đường ruột ở người do nông phẩm ở những khu vực này cao hơn gấp 3 lần những nơi khác.
Ô nhiễm đất vì chất phế thải
Nguồn chất thải rắn có rất nhiều, chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn của ngành khai thác mỏ, rác ở đô thị, chất thải nông nghiệp và chất thải rắn phóng xạ. Chủng loại của chúng rất nhiều, hàm lượng các nguyên tố độc trong chúng cũng không giống nhau; tỷ lệ nguyên tố độc hại trong chất thải rắn công nghiệp thường cao hơn; rác thành thị chứa các loại vi khuẩn gây bệnh và ký sinh trùng; chất thải rắn nông nghiệp chứa các chất hữu cơ thối rữa và thuốc nông nghiệp còn lưu lại...; chất thải phóng xạ có chứa các nguyên tố phóng xạ như Uranium, Strontium, Caesium... những chất thải rắn này được vứt bừa bãi, ngấm nước mưa, và rỉ ra nước gây ô nhiễm đất, sông ngòi, ao hồ và nguồn nước ngầm, nguồn nước ô nhiễm này lại được dùng để tưới đồng ruộng sẽ làm thay đổi chất đất và kết cấu đất, ảnh hưởng tới hoạt động của vi sinh vật trong đất, cản trở sự sinh trưởng của bộ rễ thực vật và ảnh hưởng tới sản lượng cây trồng.
Ô nhiễm đất do khí thải
Các chất khí độc hại trong không khí như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất nitơ... kết tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm ô nhiễm đất. Một số loại khói bụi có hại ngưng tụ cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. Ví dụ, các vùng đất gần các nhà máy sản xuất hoá chất Photpho, Flo, luyện kim dễ bị ô nhiễm vì khói bụi, hàm lượng flo chứa trong khoáng chất photpho sử dụng ở các nhà máy phân hoá học thường là 2 – 4%, nếu khí thải không được xử lý thích đáng, có thể làm cho một vùng hàng ngàn km2 đất xung quanh bị ô nhiễm flo nặng. Ở gần các xưởng luyện kim, vì trong khí thải có chứa lượng lớn các chất chì, cadimi, crom, đồng... nên vùng đất xung quanh sẽ bị ô nhiễm bởi những chất này. Đất ở 2 bên đường, thường có hàm lượng chì tương đối cao là sản phẩm của khí thải động cơ.
Ô nhiễm đất do nông dược và phân hoá học
Đây là 2 loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Nếu bón quá nhiều phân hoá học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu lại trong đất, qua phân giải chuyển hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô nhiễm cho mạch nước ngầm và các dòng sông. Cùng với sự tăng lên về số lượng sử dụng phân hoá học, độ sâu và độ rộng của loại ô nhiễm này ngày càng nghiêm trọng. Vì số lượng lớn nông dược tích luỹ trong đất, đặc biệt là các thuốc có chứa các nguyên tố như chì, asen, thuỷ ngân... có độc tính lớn, thời gian lưu lại trong đất dài, có loại nông dược thời gian lưu trong đất tới 10 đến 30 năm, những loại nông dược này có thể được cây trồng hấp thu, tích trong quả và lá và đi vào cơ thể người và động vật qua thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Thuốc trừ sâu đồng thời với việc diệt các côn trùng gây hại, cũng gây độc đối với các vi sinh vật và côn trùng có ích, các loại chim, cá... và ngược lại một số loại sâu bệnh thì lại sinh ra tính kháng thuốc. Theo điều tra của tổ chức nông lương thế giới: năm 1965, có 182 loài côn trùn gây hại có khả năng kháng thuốc, năm 1968, tăng lên 228 loài và đến 1979 lên tới 364 loài. Trong số 25 loài sâu hại nông nghiệp chủ yếu ở các nông trường California Mỹ thì có 17 loài đã có khả năng kháng đối với một hoặc vài loại thuốc, mỗi năm, số sâu hại kháng thuốc này làm thiệt hại mấy chục triệu đôla cho nông nghiệp vùng này.
Ô nhiễm đất do vi sinh vật
Nguồn gây ô nhiễm này chủ yếu là chất thải chưa qua xử lý của người và động vật, nước thải bệnh viện, nước thải sinh hoạt... trong đó nguy hại lớn nhất là chất thải chưa được xử lý khử trùng của các bệnh viện truyền nhiễm. Rất nhiều vi khuẩn và ký sinh trùng tiếp tục sinh sôi nảy nở trong đất, bám vào các cây trồng nông nghiệp và truyền vào cơ thể người, động vật.
Ngoài những nguồn ô nhiễm trên, các hoạt động tưới không thích đáng, chặt cây rừng, khai hoang... cũng tạo thành các hiện tượng rửa trôi, bạc mầu, nhiễm phèn... trong đất. Theo thống kê, hàng năm diện tích đất này trên thế giới tăng từ 5.000.000 đến 11.000.000 ha.
Có thể thấy rằng, chống ô nhiễm đất đang là vấn đề bức thiết đặt ra cho nhiều quốc gia. Một số biện pháp cơ bản hiện nay là: khống chế các chất thải rắn, lỏng, khí. Mở rộng và phát triển công nghệ tuần hoàn kín hoặc xử lý chất thải để giảm hoặc loại bỏ các chất gây ô nhiễm; khi lợi dụng nước thải để tưới ruộng, cần nắm được thành phần chất ô nhiễm, hàm lượng và trang thái, khống chế số lượng nước tưới hoặc thực hiện xử lý chần thiết; thứ 2 là nên khống chế việc sử dụng nông dược hoá học, hạn chế sử dụng các thuốc có độc tính cao, khả năng tồn tại lớn, phát triển các loại thuốc nông nghiệp mới có hiệu quả cao, độc tính thấp, lượng tồn trữ ít. Thứ 3 là bón phân hoá học một cách hợp lý. Thứ 4, nên tích cực áp dụng rộng rãi các kỹ thuật sinh học phòng trị sâu hại, lợi dụng các loài chim có ích, côn trùng có ích và một số vi sinh vật gây bệnh để chống lại các loại sâu hại, biện pháp này đang được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng.
Tóm lại; Đất, nước và không khí là những điều kiện cơ bản cho sự sinh tồn của con người, những hiệu ứng phụ của khoa học công nghệ hiện đại đã hạn chế lớn tới sự phát triển lành mạnh của xã hội loài người, nếu chúng ta không có biện pháp từ hôm nay, chúng ta sẽ chết dần chết mòn trên những mảnh đất ô nhiễm ấy.
2.3. Chất lượng cuộc sống giảm
Dưới sức ép của dân số, thừa dân số và thiếu tài nguyên cơ bản do sự gia tăng dân số nhanh chóng dẫn đến sự suy giảm về chất lượng không gian sống chính là vấn đề không khí, đất, nước, và sinh thái bị ô nhiễm và mất dần đi làm cho chất lượng cuộc sống của con người bị ảnh hưởng mạnh mẽ, sức khoẻ con người bị suy giảm và có thể ảnh hưởng đến tính mạng con người.
Đặc biệt là sự phát triển dân số đô thị quá nhanh, mật độ dân số đô thị tăng nhanh. Không gian sống bị thu hẹp, con người phải sống chen chúc trong một diện tích không phù hợp; một số người sống dưới mức cho phép tại các bãi rác và các khu nhà ổ chuột; gây ra các vấn đề môi trường nghiêm trọng. Sự thiếu đất là nhân tố quan trọng làm suy thoái môi trường và là nguyên nhân của sự nghèo đói, không được học hành. Ở Banladesh, 4/5 dân số ở các làng có mức thu nhập thấp hơn mức nghèo tuyệt đối, có đến 54% số dân nông thôn không được cung cấp nước sạch và dịch vụ vệ sinh; Tỷ lệ trẻ em chết từ 1 đến 5 tuổi còn khá cao; FAO ước tính có 1/4 tỉ hecta đất canh tác sẽ chuyển thành đất xây dựng đô thị.
Các nhà khoa học thuộc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Viện Y tế quốc gia Mexico (INSP) cảnh báo, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu người tử vong do tình trạng ô nhiễm môi trường và không khí ngày càng gia tăng. Trong đó Mỹ Latinh là khu vực ô nhiễm nặng nề nhất thế giới. Chỉ tính riêng ba nước Mexico, Chile và Brazil, hàng năm đã có tới 22.000 người chết vì các bệnh liên quan ô nhiễm môi trường, riêng Mexico là 7.000 người. 75% dân số của khu vực Mỹ Latinh và Caribbean sống tại các khu dân cư nông thôn đông đúc, thậm chí nhiều nơi mật độ dân số hiện nay còn cao gấp hàng chục lần so với mật độ dân số chuẩn mà Liên hiệp quốc đề ra, đồng thời lượng khí thải độc hại tăng mạnh trong những năm gần đây cũng là những nguyên nhân làm giảm chất lượng bầu không khí.
Con người còn bị giảm những
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ dân số- môi trường - phát triển bền vững.doc