Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chình và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những tồn tại, yếu kém nội tại của nền kinh tế, trong 2 năm qua nền kinh tế nước ta đã có những biến động về phương diện kinh tế vĩ mô.
Do đó chỉ riêng từ quý 1/2008 đến quý 4/2008 đã có 2 lần thay đổi rất lớn về chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế: Đứng trước áp lực lạm phát, mà dấu hiệu rõ nét từ Quý 4/2007, cùng với tác động tiêu cực,do gia tăng đột biến giá cả một số hàng hóa trên thị trường thế giới, tháng 3.2008 chính phủ đã chuyển mục tiêu và chính sách từ sự theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao sang chính sách ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô với 8 nhóm giải pháp. Kết quả từ tháng 6.2008 chỉ số CPI của nền kinh tế đã có xu hướng giảm dần và kinh tế vĩ mô có dấu hiệu ổn định hơn. Nhưng sau 15.9.2008, thời điểm thực sự nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cùng với sự suy thoái khá sâu về kinh tế, đã tác động rất tiêu cực đến nhiều lãnh vực trong hoạt động kinh tế của nước ta và từ đầu quý 4/2008 nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát do sức cầu giảm.Một lần nữa mục tiêu và chính sách kinh tế phải thay đổi: chuyển từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng với 5 nhóm giải pháp đang thực hiện đến nay.
Có thể nói trong vòng chưa đầy một năm nền kinh tế đã có 2 bước ngoặt về sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô để thích nghi với tình hình cụ thể, trong đó có thể nói vai trò quyết định là sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Điểm qua vai trò của chính sách tiền tệ đã thực thi trong 2 bước ngoặt trên để qua đó làm rõ vai trò của nó trong giai đoạn sau thời kỳ suy giảm.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14164 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2. Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công
Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn.
Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa
Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Triển khai việc tu bổ các công trình hồ chứa, đê điều, công trình thủy lợi nhằm chủ động đối phó với thiên tai trong mùa bão, lũ sắp tới để đảm bảo an toàn lao động cho sản xuất và đời sống.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời, có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón,... Chủ động đề ra và áp dụng phương án khắc phục tình trạng thiếu điện và bảo đảm điện cho sản xuất.
4. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu
Bộ Công Thương chủ trì đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp nhập khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại các thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới để tăng xuất khẩu. Tăng cường các giải pháp khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ và du lịch. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đề xuất cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trên thị trường nội địa, bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá phù hợp với chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. Có cơ chế và chỉ đạo các ngân hàng thương mại mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, xử lý kịp thời các ách tắc về tín dụng, đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý cho xuất khẩu.
Bộ Tài chính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng công cụ thuế để tăng thuế xuất khẩu ở mức hợp lý đối với than, dầu thô. Điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu như: ô tô nguyên chiếc, linh kiện lắp ráp ô tô dưới 12 chỗ ngồi, một số mặt hàng điện tử, điện lạnh, xe và linh kiện lắp ráp xe hai bánh gắn máy, rượu, bia để thực hiện mục tiêu giảm nhập siêu nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với cam kết hội nhập, áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác cần thiết, phù hợp với các cam kết quốc tế để hạn chế các mặt hàng thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu.
5. Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng
Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
6. Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá
Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
7. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp. Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Chính phủ quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính phủ quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp sáng) cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện, điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới hay thay máy tàu sang loại tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh phí và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng trên các tàu cá, tàu dịch vụ; hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản.
Chính phủ quyết định giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay ưu đãi để học tập. Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan trọng cần chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
8. Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền
Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức chỉ đạo công tác thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận cao trong tất cả các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và trong các tầng lớp nhân dân để thực hiện các mục tiêu và giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn, phát triển ổn định.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức rất gay gắt nhưng thời cơ, thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao và mục tiêu, các giải pháp trên, có kế hoạch tổ chức thực hiện ngay trong tháng 4 năm 2008.
Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh những thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội
PHẦN IV: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT MÀ NHNN ĐÃ THỰC HIỆN
Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của dân chúng, NHNN đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống, bao gồm: tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VNĐ và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện DTBB từ <24 tháng thành tất cả các kỳ hạn; Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp tục thực hiện chuyển khoảng 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về Ngân hàng Nhà nước; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008
Tóm lại Chính phủ đã có những quyết sách đúng hướng tập trung vào năm khu vực then chốt nhất, cấp bách nhất hiện nay đó là: áp dụng các biện pháp đồng bộ cả về cơ chế chính sách và tín dụng nhằm ổn định thị trường bất động sản vốn có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng; các biện pháp vực dậy thị trường chứng khoán, củng cố lòng tin của công chúng và các nhà đầu tư vào khả năng giải quyết các vấn đề tài chính của Chính phủ theo nguyên tắc thị trường; củng cố và tăng cường tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại; giảm bớt sức ép chi phí sản xuất vốn đang rất căng thẳng của các doanh nghiệp, bao gồm kiểm soát giá đầu vào, giá độc quyền, từng bước giảm lãi suất cho vay theo đà giảm lạm phát, đẩy mạnh mua ngoại tệ cho doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà đầu tư nước ngoài; có chính sách cụ thể kể cả chính sách tín dụng nhằm phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng cung về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu, tiến tới ổn định giá cả các mặt hàng này, coi đây là mục tiêu quan trọng nhất của tiến trình chống lạm phát
1. Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ chủ yếu
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chình và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những tồn tại, yếu kém nội tại của nền kinh tế, trong 2 năm qua nền kinh tế nước ta đã có những biến động về phương diện kinh tế vĩ mô.
Do đó chỉ riêng từ quý 1/2008 đến quý 4/2008 đã có 2 lần thay đổi rất lớn về chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế: Đứng trước áp lực lạm phát, mà dấu hiệu rõ nét từ Quý 4/2007, cùng với tác động tiêu cực,do gia tăng đột biến giá cả một số hàng hóa trên thị trường thế giới, tháng 3.2008 chính phủ đã chuyển mục tiêu và chính sách từ sự theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao sang chính sách ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô với 8 nhóm giải pháp. Kết quả từ tháng 6.2008 chỉ số CPI của nền kinh tế đã có xu hướng giảm dần và kinh tế vĩ mô có dấu hiệu ổn định hơn. Nhưng sau 15.9.2008, thời điểm thực sự nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cùng với sự suy thoái khá sâu về kinh tế, đã tác động rất tiêu cực đến nhiều lãnh vực trong hoạt động kinh tế của nước ta và từ đầu quý 4/2008 nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát do sức cầu giảm.Một lần nữa mục tiêu và chính sách kinh tế phải thay đổi: chuyển từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng với 5 nhóm giải pháp đang thực hiện đến nay.
Có thể nói trong vòng chưa đầy một năm nền kinh tế đã có 2 bước ngoặt về sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô để thích nghi với tình hình cụ thể, trong đó có thể nói vai trò quyết định là sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Điểm qua vai trò của chính sách tiền tệ đã thực thi trong 2 bước ngoặt trên để qua đó làm rõ vai trò của nó trong giai đoạn sau thời kỳ suy giảm.
1.1. Lý luận và thực tiễn sử dụng chính sách tiền tệ như một trong những công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế vĩ mô: Về lý thuyết, kinh tế vĩ mô thường tập trung vào 4 mục tiêu chính:
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh qua tốc độ tăng trưởng GDP hay GNP cùng với chỉ tiêu GDP/người vào những mốc thời gian nhất định. Đây là mục tiêu bao trùm nhất của kinh tế vĩ mô phản ảnh chung nhất về thành tựu phát triển của một nền kinh tế. Tuy chỉ báo này chưa phản ảnh đầy đủ chất lượng của một nền kinh tế, nhưng luôn luôn là chỉ báo quan trọng nhất để đánh giá sự thành công hay thất bại của một nền kinh tế.
(2) Kiểm soát giá cả thông qua chỉ báo CPI hay thường nói là kiểm soát lạm phát là chỉ báo quan trọng nhất phản ảnh tính ổn định của kinh tế vĩ mô. Chỉ báo này còn được sử dụng như một công cụ giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với an sinh xã hội.
(3) Tạo việc làm mới cho xã hội, kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp là chỉ báo vừa phản ảnh tình trạng của nền kinh tế, vừa phản ảnh tính ổn định về mặt an sinh xã hội. Thông thường ở các nước đây là chỉ báo rất quan trọng không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị phản ánh năng lực quản lý điều hành của một chính phủ.
(4) Tăng xuất khẩu ròng (lấy kim ngạch xuất khẩu – kim ngạch nhập khẩu); nhất là đối với những nền kinh tế hướng về xuất khẩu.
Bốn mục tiêu nêu trên được sử dụng khá phổ biến ở các nước như là những mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô. Những mục tiêu này cũng chính là những sản phẩm đầu ra của quan hệ tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Vai trò của nhà nước thông qua các chính sách và giải pháp kinh tế để tác động đến tổng cung và tổng cầu nhằm tạo được “đầu ra” theo ý muốn, với nguyên tắc: nhà nước không tác động trực tiếp vào chủ thể tạo cung hay tạo cầu, mà tác động vào thị trường (sự vận động của tổng cung và tổng cầu được xem như “hộp đen”) và chính thị trường sẽ tác động đến các chủ thể của nền kinh tế (người sản xuất, người tiêu dùng). Để thực hiện 4 mục tiêu nêu trên, nhà nước thường sử dụng 4 nhóm chính sách hay còn gọi là các nhóm công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô:
- Chính sách tài khóa bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ. Đây là những chính sách quan trọng nhất vì nó không chỉ tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế mà còn có ý nghĩa dẫn dắt, định hướng thị trường. Chính sách tài khóa thường rất linh hoạt để điều chỉnh kịp thời các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ví dụ chính sách tăng thuế để hạn chế tiêu dùng.
- Nhóm các chính sách tiền tệ được ngân hàng trung ương sử dụng để điều tiết thị trường tài chính, mà trọng tâm là thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định giá cả. Thông thường chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh nhất đến điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế thông qua các công cụ như: lãi suất, hối đoái,dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, các nghiệp vụ của thị trường mở…
- Chính sách chi tiêu nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng và điều tiết khối cầu của nền kinh tế. Chính sách này được sử dụng thường xuyên trong trường hợp nền kinh tế ở trong tình trạng lạm phát hoặc giảm phát.
- Chính sách ngoại thương nhằm điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu, bảo đảm mục tiêu tăng xuất khẩu ròng; đồng thời cũng điều tiết tổng cung và tổng cầu nội địa của nền kinh tế.
Bốn nhóm công cụ chính sách nêu trên tùy theo tính chất của một nền kinh tế và trong mỗi giai đoạn nhất định được điều chỉnh nhằm bảo đảm phục vụ có hiệu quả cho các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Mục tiêu và công cụ chính sách kinh tế vĩ mô được khái quát theo sơ đồ dưới đây
1.2. Thực tiễn sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở nước ta
Từ sự phân tích lý thuyết như trên đối chiếu với thực tiễn ở nước ta cho thấy, trong 2 năm qua Chính phủ đã sử dụng khá linh hoạt các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để điều chỉnh các mục tiêu kinh tế-xã hội, đặc biệt là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, cụ thể như sau:
+ Trong năm 2008, để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện an sinh xã hội, trong 8 nhóm giải pháp thực hiện từ tháng 3 năm 2008, thì nổi bật và có tác dụng nhanh nhất là chính sách tiền tệ. Với tình hình lạm phát cao (trên 2%/tháng) Chính phủ thực hiện chính sách siết chặt tiền tệ, thông qua các công cụ của Ngân hàng TW như tăng lãi xuất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại, thực hiện tín phiếu bắt buộc đối với một số tổ chức tín dụng chủ yếu, hạn chế việc chiết khấu các loại giấy tờ có giá... nhằm kéo giảm tốc độ tăng dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại, giảm tổng cung tiền trong lưu thông... dẫn đến giảm tổng cầu của nền kinh tế, tạo sự thăng bằng mới trong quan hệ giữa Tổng cung - Tổng cầu. Khi một nền kinh tế lâm vào tình trạng lạm phát, thì có nhiều nguyên nhân, bao gồm trực tiếp và gián tiếp, nhưng luôn luôn được thể hiện qua tiền tệ, nên “toa thuốc tiền tệ” có tác dụng nhanh nhất.
+ Từ đầu năm 2009, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng suy giảm khá mạnh (GDP quý 1/2008 tăng 7,4% nhưng quý 1/2009 chỉ còn 3,1%), mục tiêu kinh tế vĩ mô là ngăn chặn suy giảm, nên phải áp dụng các giải pháp để tăng tổng cầu của nền kinh tế. Một lần nữa chính sách tiền tệ được sử dụng như công cụ chủ yếu để phục vụ mục tiêu kinh tế. Trong 5 nhóm giải pháp chính phủ thực thi từ tháng 12/2008 đến nay, thì nổi bật vẫn là việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ như: nới lỏng chính sách tín dụng, hạ lãi xuất cơ bản, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại, trả nợ tín phiếu bắt buộc, tái chiết khấu và tái cấp vốn qua nghiệp vụ thị trường mở, mở rộng biên độ tỷ giá VND... để kích thích sự gia tăng tổng cầu của nền kinh tế, qua đó làm tăng cả tổng cung. Để thực hiện gói kích thích kinh tế với quy mô 8 tỷ USD, mà chính phủ công bố, thì cho đến nay việc thực hiện bù lãi xuất 4% cho các doanh nghiệp thuộc đối tượng vay vốn lưu động vẫn là chính sách có nhiều tác dụng nhất.
+ Năm 2010: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2010 đã tăng 1,05%. So với tháng 12/2009, CPI tháng 10 tăng 7,58%, chỉ để lại khoảng hẹp 0,42% cho hai tháng cuối năm phấn đấu chốt vào mức tăng 8% cả năm như Chính phủ đã dự kiến. So với cùng kỳ năm ngoái, CPI tháng này tăng 9,66%. Còn bình quân 10 tháng năm 2010, CPI đã tăng 8,75%. Để kiềm chế vững chắc các động thái lạm phát theo mục tiêu đề ra trong những tháng cuối năm và thời gian tới, Chính phủ hiện đã có chỉ đạo thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ chủ yếu và các nhóm giải pháp lớn để khôi phục phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa nguy cơ tái lạm phát cao. Để hỗ trợ tăng trưởng, Chính phủ sử dụng tất cả các công cụ tác động vào các thành tố: chi tiêu công (G), tiêu dùng (C), đầu tư (I) và xuất khẩu nhằm cải thiện nhập siêu, hướng tới xuất khẩu ròng (NX) thông qua chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; một công cụ nữa cũng được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đó là thông tin - truyền thông.
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định tăng tỉ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND tăng thêm 603 đồng kể từ ngày 11/2/2010, tăng thêm 3,3% so với tỉ giá ngày trước đó. Tăng tỉ giá ngoại tệ, trước hết đối với USD, như một động thái cần thiết, khó tránh khỏi trong điều chỉnh chính sách tiền tệ năm 2010 nhằm làm giảm áp lực tiêu cực của chênh lệch tỷ giá giữa đồng VND với đồng USD và các đồng ngoại tệ khác trên thị trường chính thức và thị trường tự do, cũng như để phù hợp cơ chế quản lý tỷ giá chung trên thế giới và xu hướng giảm giá các đồng tiền này trong thời gian qua. Về tổng quát và lâu dài, việc điều chỉnh tỷ giá này có tác động tốt nhằm hạn chế, giải toả tình trạng găm giữ, cũng như kỳ vọng đầu cơ, góp phần cân đối theo nguyên tắc thị trường cung - cầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và tăng cường sản xuất trong nước, từ đó góp phần kiềm chế vững chắc lạm phát. Đối với chính sách tài khoá: Trong kế hoạch phát triển KT-XH năm 2010, tổng vốn đầu tư xã hội được xác định lên tới 41% GDP, một tỷ lệ kỷ lục trong nhiều năm qua; trong đó chi đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) chiếm khoảng 17%, bằng khoảng 22% tổng dự toán chi NSNN năm 2010. Chính việc tăng đầu tư này sẽ dẫn đến tăng nhập khẩu
2. Chính sách tiền tệ trong giai đoạn “hậu khủng hoảng”
2.1. Kinh tế toàn cầu bước vào thời kỳ “hậu khủng hoảng”
Theo dõi diễn biến tình hình kinh tế thế giới từ đầu năm đến nay cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chắc chắn không dẫn đến một cuộc đại khủng hoảng kinh tế như thời kỳ 1929-1933, mà đã có nhiều người lo lắng.Tác động của khủng hoảng tài chính đã dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng đến nay có thể tin rằng, sự suy giảm đã chạm đáy.
Thật vậy, đối với thị trường tài chính,thì đáy của khủng hoảng đã không lập lại sau ngày 10/3/2009, ngày có các chỉ số của các thị trường chứng khoán Mỹ đạt mức thấp nhất. Đối với suy giảm kinh tế thì hầu hết các nền kinh tế chịu ảnh hưởng lớn nhất đều tin rằng đã đến đáy: Ba nền kinh tế lớn Mỹ, EU và Nhật bản đã có dấu hiệu tăng trưởng dương; tỷ lệ thất nghiệp giảm; các nền kinh tế khác như Hàn quốc, Singapore... đang có sự phục hồi ngoạn mục. Trung quốc, ấn độ, Indonesia đang tập trung tăng tốc trở lại với đầy tham vọng của thời kỳ hậu khủng hoảng.
Có thể nói: Thế giới đang thực sự bước vào thời kỳ hậu khủng hoảng. Các quốc gia đang nỗ lực thực hiện các chiến lược riêng của mình; một cuộc chạy đua mới đang diễn ra, mặc dù tốc độ phục hồi chung của nền kinh tế toàn cầu rất chậm và phần nào đó trì trệ cho đến giữa năm tới, khi niềm tin của nhà đầu tư và tính ổn định của nền tài chính được củng cố.
2.2. Kinh tế Việt Nam đang phục hồi
Với đặc điểm của một nền kinh tế có độ mở cao, cùng với đặc điểm của một nền kinh tế mang nặng tính chất gia công, tỷ trọng giá trị gia tăng thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm, nên chịu tác động rất lớn của thị trường thế giới. Tuy nền kinh tế nước ta không chịu tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính toàn cầu; hệ thống tài chính-tín dụng giữ được ổn định, nhưng sự tăng trưởng kinh tế trong nước vẫn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phục hồi của thị trường thế giới. Tuy nhiên, nếu xét về hệ thống tài chính-tín dụng, thì thời điểm khó khăn nhất đã rơi vào quý 2/2008, còn tăng trưởng kinh tế khó k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện trong vài năm trở lại đây để kiềm chế lạm phát.doc