Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1 Đặt vấn đề 2
2 Một số vấn đề chung về hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế 3
2.1 Khái niệm hội nhập kinh tế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
2.2 Tại sao phải hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . . . . . 3
2.3 Nội dung của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . . . . . 4
2.3.1 Nguyên tắc của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . 4
2.3.2 Nội dung của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . 4
2.4 Thuận lợi, khó khăn và thách thức khi Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
3 Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực
và trên thế giới 8
3.1 Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . . 8
3.1.1 Quan điểm: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
3.1.2 Mục tiêu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
3.2 Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
3.3 Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam . . . . . . . . . . . . . 9
3.3.1 Con đường hội nhập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
3.3.2 Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam Á . . . 10
3.3.3 Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
3.3.4 Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) . . . . . . . . . . . . . . . . 13
3.3.5 Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) . . . . . . 15
3.3.6 Hợp tác kinh tế quốc tế năm 2011 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22
KẾT LUẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4059 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 ".
3.2 Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm
thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới
Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban hành những
chính sách nhằmm thúc đẩy tiến trình hội nhập.
- Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật lao động,
luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thông, luật xây
dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên...Sửa đổi và bổ sung pháp luật và
pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật. . .
- Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính,
tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. . . tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
3.3 Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam
3.3.1 Con đường hội nhập
Theo quan điểm của đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị
trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “ quá nóng “ về mức độ %, thời hạn mở của thị
trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng
loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó
lường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá
trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây
tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém
hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định thời gian mở cửa
thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế
so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày
càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ.
Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã
mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài
chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức
tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu
thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng
9
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
tháng 7/1995 công nghệ đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kĩ thuật
và một số lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU). Đồng thời bình thường hoá quan
hệ với Mĩ. Khoảng tháng 3/1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập
diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEAM). Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng
7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được kí kết. Trước đó từ cuối năm
1994, nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đến
năm 2007 chúng ta đã chính thức gia nhập WTO sau khi bộ trưởng Trương Đình Tuyển
đàm phán thành công vào năm 2006.
3.3.2 Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông
Nam Á
Quá trình gia nhập
Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
Ngày 15/12/1995 Việt Nam chính thức tham gia thực hiện AFTA bằng việc kí nghị định
thư tham gia hiệp định CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày1/1/1996 và sẽ kết thúc vào ngày
1/1/2006.
Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn danh mục hàng
hoá theo quy định của CEPT: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời,
danh mục cắt giảm thuế ngay, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến nhạy cảm
cao.
Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu
của ta hoặc những mặt hàng chưa có trao đổi buôn bán gì với ASEAN.
Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập ASEAN /AFTA/CEPT
Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong
nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT cho thấy sự bất lợi của các doanh nghiệp
trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các rào cản phi thuế.
Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết bị máy móc...Cơ chế
KHH tập trung trong thời gian dài trước đây đã tạo cho các nhà sản xuất trong nước có
thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh,
thị trường tiêu thụ và vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng
cụ thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi trường mở
cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp không có định hướng xuất khẩu một
cách khả thi, kế hoạch xuất khẩu thì chỉ là những chỉ tiêu xuất khẩu dựa trên kế hoạch
về sản lượng so sánh với dự kiến về kế hoạch tiêu dùng trong nước mà không có những
phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành, chất lượng, khả năng tiêu thụ.
Tuy nhiên cũng có một số ngành sản xuất trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh,
một số doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay đổi trong môi trường kinh doanh
theo cơ chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ mới. Đối với các ngành này nếu được
áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn và thích hợp thì sẽ có khả năng phát
triển sản xuất và xuất khẩu.
10
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
Với thực trạng phát triển hiện nay của các ngành sản xuất trong nước, phương án
thích hợp nhất để thực hiện AFTA/CEPT cần được lựa chọn đối với Việt Nam là Việt
Nam sẽ thực hiện AFTA trong khuôn khổ các quy định của CEPT, đồng thời đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu phù hợp với các lợi thế tương đối của Việt Nam trong tương quan
so sánh với các nước ASEAN; tập trung phát triển nhanh những ngành có lợi thế . Tuy
nhiên vẫn tiếp tục duy trì bảo hộ có thời hạn hoặc theo những mức độ khác nhau cho
phần lớn các ngành của nền kinh tế quốc dân, để có thể đạt được một trình độ phát triển
nhất định trước khi mở cửa thị trường trong nước theo CEPT, chỉ hạn chế sản xuất với
một số ít các ngành mà Việt Nam không có khả năng cạnh tranh.
Điều thuận lợi là hàng xuất khẩu của ta khi nhập vào các nước ASEAN sẽ được hưởng
thuế suất ưu đãi nhưng đây cũng là một vấn đề có những thách thức riêng của nó. Bởi
khi ta được hưởng ưu đãi thì cũng phải dành ưu đãi về thuế suất cho bạn. Khi đó nếu
hàng hoá của ta chất lượng không bằng bạn, giá cao hơn thì các doanh nghiệp của ta rất
dễ mất đi thị trường trong nước. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, mặc dù ta là nước xuất
khẩu gạo thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Khi được hưởng thuế quan ưu đãi, kể
cả sau khi đã nộp thuế nhập khẩu, nếu giá thành bán lẻ của gạo Thái Lan vẫn thấp hơn
giá thành bán lẻ của ta (mà gạo Thái Lan phải ngon hơn gạo ta), thì người tiêu dùng với
mức sống ngày càng tăng như hiện nay chọn mua gạo Thái Lan để ăn. Và gạo của ta lúc
đó chỉ còn là thị phần của những người có thu nhập thấp hoặc để xuất khẩu.
Dấu ấn Việt Nam sau 15 năm gia nhập ASEAN
Trong suốt chặng đường 15 năm qua, Việt Nam đã tham gia tích cực và có nhiều đóng
góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN cũng như trong việc xác
định tương lai phát triển, phương hướng hợp tác và các quyết sách lớn của ASEAN, góp
phần tăng cường đoàn kết và hợp tác, nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Hiệp hội.
Với mong muốn cùng chung tay xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và thịnh vượng,
Việt Nam và các thành viên khác của ASEAN đã vượt qua những khác biệt và tồn tại
do lịch sử để lại, đẩy mạnh hợp tác toàn diện trên tinh thần hữu nghị và đoàn kết. Việc
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 được coi là bước khởi đầu quan trọng đối với tiến
trình mở rộng và phát triển của ASEAN. Ngay sau khi tham gia ASEAN, Việt Nam đã
tích cực thúc đẩy việc kết nạp các nước Lào, Myanmar và Campuchia vào ASEAN, qua
đó góp phần hoàn tất ý tưởng về một ASEAN bao gồm toàn bộ 10 quốc gia ở Đông Nam
Á, mở ra một trang mới của đoàn kết, hữu nghị và hợp tác ở khu vực. Có thể khẳng định
rằng, sự hình thành ASEAN-10 là một trong những mốc phát triển quan trọng của Hiệp
hội, tạo nền tảng thiết yếu cho ASEAN trở thành một tổ chức khu vực toàn diện, liên
kết sâu rộng và có vai trò quan trọng ở Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương như
ngày nay.
Dấu ấn Việt Nam thể hiện khá đậm nét trong việc tổ chức những hoạt động quan
trọng cũng như trong việc xây dựng các quyết sách lớn của ASEAN. Chỉ 3 năm sau khi
trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã để lại trong lòng bạn bè ASEAN và quốc tế
11
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
những ấn tượng sâu sắc với việc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6
(Hà Nội, tháng 12/1998). Kết quả của Cấp cao ASEAN-6, nhất là việc thông qua Chương
trình Hành động Hà Nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020, đã giúp ASEAN
duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm
khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997-1998. Tiếp
đó, Việt Nam cũng đã đảm nhận tốt vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN nhiệm
kỳ 7/2000-7/2001, với kết quả ghi đậm dấu ấn Việt Nam là Tuyên bố Hà Nội về Thu
hẹp khoảng cách phát triển được thông qua tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ
34 (7/2001), thể hiện nỗ lực thúc đẩy hợp tác và tăng cường liên kết khu vực, đảm bảo
sự phát triển cân bằng và bền vững của Hiệp hội.
Việt Nam cũng có nhiều đóng góp cụ thể quan trọng trong bốn lĩnh vực hợp tác chính
của ASEAN về chính trị-an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội và quan hệ đối ngoại. Đó là kết
quả của sự tham gia tích cực và chủ động của các Bộ, ngành liên quan của ta, kể cả việc
đăng cai tổ chức nhiều hoạt động quan trọng của ASEAN cũng như việc thúc đẩy các
sáng kiến có giá trị.
Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ASEAN chuyển sang giai
đoạn mới, đó là hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với 3
trụ cột Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-xã hội, và hoạt động trên cơ sở pháp lý
là Hiến chương ASEAN. Vai trò tích cực và sự đóng góp quan trọng của Việt Nam được
thể hiện rõ trong quá trình hình thành ý tưởng, hoạch định chính sách, xây dựng và triển
khai các văn kiện cơ bản của ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng như Tuyên
bố Hòa hợp ASEAN II năm 2003, Chương trình hành động Vientian (VAP) năm 2004,
Hiến chương ASEAN năm 2007, Lộ trình xây dựng Cộng đồng cùng với các Kế hoạch
tổng thể xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng, và Kế hoạch công tác IAI về Thu hẹp khoảng
cách phát triển năm 2009.
Năm 2010, Việt Nam lần thứ hai đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN kể từ khi gia
nhập ASEAN. Với chủ đề xuyên suốt của năm Chủ tịch ASEAN 2010 là “Hướng tới Cộng
đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”, Việt Nam đang nỗ lực hết mình trong vai
trò điều phối, thúc đẩy các hành động và biện pháp hợp tác cụ thể nhằm triển khai hiệu
quả Lộ trình xây dựng Cộng đồng và Hiến chương ASEAN, đồng thời mở rộng và làm
sâu sắc hơn quan hệ hợp tác toàn diện giữa ASEAN với các bên Đối tác, củng cố và duy
trì vai trò trung tâm của ASEAN trong các tiến trình hợp tác khu vực và trong bối cảnh
một cấu trúc khu vực đang định hình. Thành công của Hội nghị Cấp cao ASEAN 16 (Hà
Nội, tháng 4/2010) và của các Hội nghị cấp Bộ trưởng mà gần đây nhất là Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 43 và các Hội nghị liên quan (Hà Nội, tháng 7/2010)
là minh chứng sinh động cho các nỗ lực của Việt Nam trong việc đẩy mạnh hành động
hướng tới mục tiêu Cộng đồng ASEAN.
12
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
3.3.3 Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu Á - Thái Bình Dương
Ngày 15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương (APEC) và 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức
này, một tổ chức hiện gồm có 21 thành viên, trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát
triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường).
Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy
mở cửa sản xuất thuận lợi hoá thương mại đầu tư hợp tác kinh tế kĩ thuật theo nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện cônh khai và không phân biệt đối xử giữa các thành
viên cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng
việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm.
Các vấn đề chính trị tuy được quan tâm nhưng thường được bàn một cách không chính
thức.
3.3.4 Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU)
Trên lĩnh vực kinh tế thương mại, Việt Nam và các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU)
đã có mối quan hệ khá lâu song chúng được phát triển và mở rộng trong những năm gần
đây, sau khi Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 2/1990.
Sau 20 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 11/1990, quan hệ Việt Nam
và Liên minh châu Âu (EU) đã có những bước phát triển nhanh chóng và vững chắc.
Ngày nay, EU là đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
EU: đối tác thương mại hàng đầu
Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh cho rằng, sau 20 năm thiết lập quan hệ,
thương mại song phương là lĩnh vực đạt tiến bộ nổi bật. EU nhanh chóng trở thành đối
tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam.
Tổng kim ngạch thương mại hai chiều tăng nhanh từ 1,5 tỷ USD năm 1995 lên mức kỷ
lục 16,2 tỷ USD vào năm 2008, vượt mức định hướng 15 tỷ USD đặt ra cho năm 2010
trong Đề án tổng thể về phát triển quan hệ Việt Nam – EU đến năm 2010 và định hướng
cho năm 2015, nghĩa là đã hoàn thành kế hoạch định hướng trước 2 năm.
Năm 2009, dù kinh tế thế giới khủng hoảng, nhưng kim ngạch thương mại giữa hai bên
vẫn đạt 15,2 tỷ USD.
9 tháng năm 2010, Việt Nam xuất khẩu 7,8 tỷ USD vào EU, tăng 13% so với cùng kỳ
trong khi nhập khẩu từ EU đạt 5 tỷ USD, tăng 26,2. EU là thị trường lớn cho một số mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như may mặc, hải sản, giầy dép, cà phê, đồ gỗ.
Hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ EU là máy móc thiết bị, tân dược, sắt thép
các loại, sản phẩm hóa chất, dụng cụ quang học và phương tiện vận tải.
Xét cán cân thương mại song phương, Việt Nam luôn là bên xuất siêu.
EU - Nhà đầu tư lớn
Tính đến ngày 20/10/2010, với 1.036 dự án, tổng vốn đăng ký xấp xỉ 16 tỷ USD, EU
đang là một trong các nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam.
13
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
Các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam
nhưng tập trung nhiều nhất vào ngành công nghiệp và xây dựng (chiếm 52% số dự án và
khoảng 59% tổng số vốn đầu tư), trong đó công nghiệp nặng khoảng 40% số dự án, tổng
vốn đầu tư 6 tỷ USD, tiếp theo là khai thác dầu khí với gần 20 dự án và 2,4 tỷ USD vốn
đầu tư.
Do có ưu thế về công nghệ, các nhà đầu tư EU đã góp phần tích cực trong việc tạo ra
một số ngành mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao.
Hiện, các tập đoàn lớn của EU đều đã có mặt tại Việt Nam và đang hoạt động hiệu
quả như Shell (Anh), Siemens (Đức), Alcatel (Pháp), BP (Anh), Total Elf Fina (Pháp),
Daimler (Đức). . . Thời gian gần đây, dù vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công
nghệ cao nhưng đầu tư từ EU đã có xu hướng quan tâm hơn tới các ngành dịch vụ như
viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ. . .
Bên cạnh thương mại và đầu tư, EU còn là đối tác quan trọng và là một trong những nhà
tài trợ lớn nhất về hỗ trợ phát triển cho Việt Nam với các lĩnh vực chủ yếu như y tế, giáo
dục, văn hóa, bảo vệ môi trường, chuyển đổi nền kinh tế, cải cách hành chính và xóa đói
giảm nghèo.
Từ năm 1993 đến năm 2009, tổng cam kết ODA của Ủy ban châu Âu và các nước thành
viên EU dành cho Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ USD, trong đó giải ngân được gần 5 tỷ
USD. Năm 2010, tổng ODA cam kết của EU là 1,05 tỷ USD.
Triển vọng hợp tác
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh: Hiệp định đối tác, hợp tác toàn
diện (PCA) vừa được ký kết vào ngày 4/10/2010, tạo ra một khuôn khổ mới, dài hạn và
toàn diện cho quan hệ Việt Nam – EU. PCA sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hai bên có thể
khai thác được tốt hơn lợi thế so sánh và bổ sung lẫn nhau. Nhiều lĩnh vực EU có thế
mạnh như cơ khí, chế tạo, giao thông vận tải, hoá chất, dược phẩm và dịch vụ có giá trị
gia tăng cao trong khi Việt Nam có nhu cầu lớn nhưng khả năng đáp ứng trong nước còn
hạn chế. Đồng thời, nhiều mặt hàng Việt Nam có lợi thế, có thể đáp ứng nhu cầu nhập
khẩu lớn của EU như cao su nguyên nhiên liệu, thủ công mỹ nghệ, giày dép, may mặc,
thuỷ hải sản, cà phê, chè, hạt tiêu. . .
Đặc biệt, PCA đã tạo tiền đề để có thể đi đến một Hiệp định tự do thương mại song
phương (FTA) và hiện nay hai bên đang tham vấn để sớm chính thức tiến hành đàm
phán hiệp định này. Việc đàm phán và ký kết FTA sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh tế,
thương mại cho cả hai bên. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi
hơn khi vào thị trường EU; đồng thời tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh
của Việt Nam cũng tăng lên đối với các nhà đầu tư EU.
Đại sứ Sean Doyle cho rằng, việc Việt Nam và EU hướng tới đàm phán FTA với phạm
vi đàm phán toàn diện nhằm tác động đến quy mô, dòng chảy thương mại giữa hai bên,
là yếu tố bắt buộc mang tính tiêu chuẩn. EU vẫn tiếp tục là đối tác hết sức quan trọng, là
thị trường then chốt của Việt Nam trong những năm tới đây và ngày càng trở nên quan
trọng hơn sau khi Hiệp định này được ký kết.
14
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
3.3.5 Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Tại sao Việt Nam phải gia nhập tổ chức WTO
- Xuất phát từ mục tiêu của WTO là thúc đẩy tự do hoá thương mại, "luật chơi "
cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan (hạn
ngạch, cấp phép xuất nhập khẩu, mở cửa thị trường, tạo " sân chơi " bình đẳng
cho các doanh nghiệp, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. . . ), Việt Nam gia nhập
WTO đạt được lợi ích lớn nhất là thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt
Nam được mở rộng. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sẽ được cạnh tranh bình đẳng
với các đối thủ khác, không còn bị vướng nhiều rào cản về thuế quan và hạn ngạch
như hiện nay.
- Gia nhập WTO, Việt Nam đạt được bình đẳng thương mại. Việt Nam đã tham gia
nhiều hiệp định thương mại khu vực và song phương, nhưng hàng hoá Việt Nam
vẫn bị đối xử không công bằng (Mỹ áp dụng biện pháp trừng phạt về vấn đề cá da
trơn và tôm của Việt Nam trên thị trường Mỹ. EC áp thuế bán phá giá đối với sản
phẩm giầy mũ da của Việt Nam. Pê-ru đang tiến hành điều tra bán phá giá đối với
sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam. . . ). Nếu không được luật lệ của WTO bảo vệ
thì Mỹ và các nước khác có thể lại kiện Việt Nam về các mặt hàng xuất khẩu mang
lại nhiều lợi ích cho Việt Nam như hàng dệt may.
Việt Nam gia nhập WTO để sử dụng luật lệ và cơ chế hoạt động của tổ chức này
nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng nói chung, của doanh nghiệp và người lao
động Việt Nam nói riêng.
- Luật lệ của WTO, về lý thuyết, sẽ tạo thuận lớn cho Việt Nam mở rộng thâm nhập
thị trường các nước, tranh thủ vốn đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của nước
ngoài, tham gia thiết lập các "luật chơi" mới, xử lý các tranh chấp thương mại,
thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.
- Với Việt Nam, WTO là một phương tiện để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nền
kinh tế nước ta còn phụ thuộc đáng kể vào nền kinh tế thế giới vào vốn nước ngoài
(cả ODA và FDI) chiếm khoảng 30% tổng của cải xã hội; kim ngạch xuất khẩu
chiếm trên dưới 60% trị giá GDP. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tranh thủ nguồn
vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển, kích cầu tiêu dùng trong nước.
- Nếu Việt Nam không sớm gia nhập WTO sẽ bỏ lỡ cơ hội quan trọng vì càng để
chậm sẽ càng khó khăn hơn do các quy định và điều kiện gia nhập WTO sẽ ngày
càng chặt chẽ, yêu cầu ngày càng cao hơn và thương mại Việt Nam trên thị trường
thế giới sẽ chịu nhiều thua thiệt, thị phần của Việt Nam trên thị trường thế giới
khó mở rộng, cơ hội làm ăn của doanh nghiệp Việt Nam khó khăn hơn.
- Gia nhập WTO sẽ góp phần nâng cao uy tín thương mại quốc tế của Việt Nam.
Các nước thành viên WTO sẽ nhìn nhận Việt Nam đủ năng lực, và các điều kiện
tham gia " sân chơi " chung phù hợp xu thể toàn cầu hoá.
Quá trình đàm phán
Chúng ta đã đàm phán 11 năm với hơn 200 cuộc, trong đó đàm phán đa phương (14
phiên), song phương (28 đối tác); nước nhanh nhất (3 phiên), nước chậm nhất (13 phiên).
15
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
Đây là số lượng nhiều nhất trong đàm phán của Việt Nam với các tổ chức quốc tế (với
ASEAN chúng ta mất 2 năm, Hiệp đinh thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chúng ta mất 4
năm). Sở dĩ chúng ta đàm phán dài như thế chỉ với mục đích sớm gia nhập WTO.
Gia nhập WTO chúng ta có một số cơ hội lớn:
1. Đây là sân chơi lớn toàn cầu. Việt Nam gia nhập sẽ tăng vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
2. Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại và thu hút đầu
tư. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, có năm 23%, có năm
19%, năm 2005 kim ngạch của chúng ta đạt 32,5 tỷ USD. So với các nước trong khu
vực thì như vậy là rất nhỏ: Thí dụ: so với Thái-lan, 63 triệu dân, kim ngạch đạt
hơn 100 tỷ USD. Chúng ta chỉ bằng 1/3 trong khi dân số là 83 triệu người; nếu so
với Philippines, chúng ta bằng 2/3.
Muốn thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD trở lên, nhập
khẩu phải ở mức tương đương. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn bị phân biệt đối
xử, khi gia nhập WTO những phân biệt đối xử đó mới được dỡ bỏ. Thí dụ, xuất
khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép sang châu Âu; vẫn không được hưởng ưu đãi
thuế quan đối với nông sản, nên không bán gạo vào châu Âu được. Hàn Quốc bảo
hộ gạo, có hạn ngạch, gia nhập WTO chúng ta mới được chia hạn ngạch. Với Hoa
Kỳ, không gia nhập WTO chúng ta vẫn bị hạn ngạch dệt may. Nếu gia nhập WTO,
chúng ta được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may. Gia nhập WTO chúng ta mới dỡ bỏ được
rào cản, phân biệt đối xử mà chỉ dành riêng cho các thành viên WTO.
3. Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán thu
hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán WTO chúng ta có
hai loại: đa phương và song phương. Với đa phương yêu cầu đầu tiên là phải minh
bạch hóa chính sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000 câu hỏi liên quan chính sách
kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân hàng. Chính vì vậy mà trong đoàn đàm phán chính
phủ của chúng ta đã phải bao gồm tất cả các bộ, ngành tham gia để đảm đương
được khối lượng công việc lớn, trả lời nhiều vấn đề liên quan kinh tế, thương mại.
Chúng ta phải có chương trình xây dựng pháp luật.
4. Gia nhập WTO chúng ta phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định,
các quy định của WTO. Vì vậy, chúng ta có một kế hoạch sửa và xây mới 25 luật
và pháp lệnh. Chúng ta sẽ quyết tâm làm bằng được. Quốc hội sẽ dành ưu tiên để
trong các phiên họp dành thời gian xây dựng các luật, coi đây là việc trọng tâm
của Quốc hội (năm 2005 sửa và xây mới 29 luật, năm 2006 sửa và xây mới 10 luật).
Trong toàn bộ các luật và pháp lệnh mà chúng ta cam kết đa phương sẽ sửa và xây
mới là 25 luật và pháp lệnh, thì chúng ta đã làm xong 24 luật và pháp lệnh. Còn
một văn bản luật, chúng ta đang trong quá trình soạn thảo, dự kiến phiên tháng
10-2006 sẽ hoàn thành. Vậy, Việt Nam là nước đầu tiên có hệ thống pháp luật tương
đối hoàn chỉnh để gia nhập WTO.
16
Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
Để đổi mới kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây mới và sửa đổi 100 luật.
Như vậy số văn bản phục vụ đàm phán gia nhập WTO chỉ bằng 1/4 số văn bản
phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh tế. Điều đó thể hiện quyết tâm cao
của Chính phủ, Quốc hội Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Ban công tác, các thành viên Ban công tác, kể cả đoàn Hoa Kỳ cũng đánh giá rất
cao quyết tâm của Việt Nam qua việc sửa đổi hệ thống pháp luật trong thời gian
vừa qua. Chúng ta thấy các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến quá trình gia
nhập WTO của Việt Nam. Vì họ cho rằng, nếu Việt Nam gia nhập WTO thì hệ
thống pháp luật sẽ phù hợp sân chơi của Thế giới và nó sẽ ổn định. Chính vì điều
đó mà đầu tư nước ngoài năm 2005 tăng hơn rất nhiều so với năm 2004, sáu tháng
đầu năm 2006 tiếp tục tăng.Các dự án đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, Hàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_dlcm_3667.pdf