Tiểu luận Các chức năng, vai trò của quốc hội

MỤC LỤC

 

 

 Trang

 Phần mở đầu 1

Phần I Cơ sở lý luận và nội dung của đề tài 2

 1. Những đặc trưng cơ bản 2

 2. Các chức năng của quốc hội 2

 2.1. Chức năng lập pháp. 2

 2.2. Chức năng giám sát. 3

 2.3. Chức năng quyết định các vấn đề quan trọng. 3

 2.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của quốc hội. 4

 3.Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam.

6

 4. Thực trạng của hệ thống pháp luật như thế nào và nhu cầu hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động của các chủ thể. 9

Phần II KẾT LUẬN 12

 TÀI LIỆU THAM KHẢO 13

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6367 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các chức năng, vai trò của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, quyền lực của Nhà Nước nói chung bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ở nước ta lập pháp thuộc thẩm quyền của quốc hội và “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Trong bộ máy nhà nước Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà Nước cao nhất. Tuy vậy để thực hiện có hiệu quả chức năng của Nhà nước thì trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước vẫn cần phải có sự phân công và phối hợp hợp lý, rõ ràng ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các quy định của luật hành chính về tổ chức thẩm quyền và chế độ làm việc của bộ máy hành chính Nhà nước, về các nguyên tắc quản lý Nhà nước, về quy chế cán bộ, công chức và công vụ..là cơ sở cho hoạt động hành pháp của Nhà nước. Bản thân cách đặt vấn đề như thế đã nói lên vai trò to lớn của luật hành chính. Hiến pháp là “luật mẹ”, từ đấy là cơ sở để xây dựng hàng loạt hệ thống luật pháp và từ đấy hình thành một Nhà nước hợp hiến thông qua tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, cơ quan lập pháp duy nhất. Hiến pháp 1946 do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo thể hiện ý tưởng, quyết tâm của Người là xây dựng một “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân” (Lời nói đầu Hiến pháp 1946). … Đó là nền tảng trước mắt và lâu dài cho một Nhà nước pháp quyền. Kết cấu đề tài gồm có 3 phần: Phần 1: Lời mở đầu. Phần 2: Cơ sở lý luận và nội dung vủa đề tài. Phần 3: Kết luận. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI 1. Những đặc trưng cơ bản Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ðại biểu Quốc hội được cử tri bầu ra tại các đơn vị bầu cử, chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nuớc cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có 3 chức năng chính: chức năng lập pháp; chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. 2. Các chức năng của quốc hội. 2.1. Chức năng lập pháp. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và thủ tục, trình tự giải thích Hiến pháp do Quốc hội quy định. Căn cứ vào Hiến pháp, Quốc hội ban hành luật, nghị quyết. Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh, nghị quyết. Quy trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật của Quốc hội bao gồm các giai đoạn : 1) Xây dựng và thông qua chương trình xây dựng văn bản pháp luật, 2) Giai đoạn soạn thảo, 3) Giai đoạn thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban, 4) Giai đoạn xem xét tại Uỷ ban thường vụ Quốc hội, 5) Giai đoạn thảo luận tại các kỳ họp của Quốc hội và 6) Giai đoạn thông qua tại Quốc hội. 2.2. Chức năng giám sát. Theo quy định tại Ðiều 84 Hiến pháp 1992, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chức năng giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua các hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và Ðại biểu Quốc hội. 2.3. Chức năng quyết định các vấn đề quan trọng. Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước; phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Quốc hội quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia. Quốc hội quyết định đại xá quyết định trưng cầu ý dân. Trong lĩnh vực đối ngoại, Quốc hội quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước. 2.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của quốc hội Theo Ðiều 84 Hiến pháp 1992, Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế Quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước; Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ. Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thành lập và giải thể các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; Quyết định đại xá Quy định hàm cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và các danh hiệu vinh dự Nhà nước; Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác nhằm bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước; Quyết định việc trưng cầu ý dân. 3.Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Quốc hội và các đại biểu của Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân, thông qua việc bảo đảm cho nhân dân theo dõi quá trình làm việc của mình như tham dự các phiên họp, nghe chất vấn, trả lời chất vấn, và thông qua việc đại biểu Quốc hội phải báo cáo hoạt động tại đơn vị đã bầu cử mình. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm quyền của Quốc hội đã được cụ thể hóa thành ba chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Đó là lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Về chức năng lập hiến và lập pháp, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua, sửa đổi Hiến pháp và luật. Hiến pháp và luật có vị trí vô cùng quan trọng, bởi vì nó thể hiện những đường lối cơ bản, những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Các quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm những người đứng đầu các cơ quan nhà nước khác. Nhiệm kỳ hoạt động của các cơ quan nhà nước do Quốc hội quy định theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Các cơ quan nhà nước ở trung ương do được Quốc hội bầu, hoặc có thể bị bãi miễn, nên rất phụ thuộc vào sự tín nhiệm của Quốc hội. Quốc hội nước ta hoạt động theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Các vấn đề được Quốc hội quyết định phải được tập thể các đại biểu Quốc hội xem xét và chỉ được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Riêng trường hợp sửa đổi Hiến pháp phải có hai phần ba tổng số đại biểu tán thành Sáu mươi năm qua, Quốc hội nước ta luôn luôn bám sát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thể hiện ngày càng tốt hơn vai trò quyền lực, ý chí và nguyện vọng cao nhất của nhân dân. Quốc hội đã thông qua 4 văn bản Hiến pháp, 197 văn bản luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 195 văn bản pháp lệnh. Những văn bản đó đã đi vào cuộc sống của nhân dân và giữ vai trò trọng yếu trong quản lý đất nước. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Quốc hội đang phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đẩy mạnh và từng bước hoàn thiện việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tăng cường pháp chế và hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước. Truyền thống và những kinh nghiệm hoạt động của 11 khóa Quốc hội đang được nhân lên. Trong thời gian tới, yêu cầu chung đặt ra đối với Quốc hội là phấn đấu thực thi đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xứng đáng với vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu và cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ện Yêu cầu cụ thể là: 1 - Khắc phục những khuyết điểm, hạn chế hiện nay trong tổ chức, hoạt động của Quốc hội; 2 - Phát huy vai trò của Quốc hội trong việc tạo lập môi trường thể chế và điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 3 - Góp phần mở rộng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; 4 - Định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 5 - Phát triển đất nước phù hợp với xu hướng vận động của thời đại; 6 - Thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Để thực hiện tốt các yêu cầu trên, chúng ta cần tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức một cách đầy đủ và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội nhằm phát huy vị trí, vai trò của Quốc hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đổi mới, nâng cao chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của Quốc hội theo hướng tập trung quyền lập pháp vào Quốc hội, giảm dần và tiến tới không ban hành pháp lệnh; luật hóa tối đa các quyết định của Quốc hội, để luật của Quốc hội giữ vai trò chủ đạo trong việc điều chỉnh các quan hệ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội; phân biệt rõ ràng bản chất giám sát của Quốc hội là giám sát mang tính quyền lực nhà nước, khác với các hình thức giám sát khác. Phát huy có hiệu quả, đồng bộ các hình thức giám sát của Quốc hội: giám sát của tập thể Quốc hội, giám sát của Hội đồng Dân tộc, của các ủy ban và của đoàn đại biểu Quốc hội; nâng cao vai trò giám sát thi hành pháp luật tại địa phương của các đại biểu Quốc hội. Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội; tăng cường hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và ở các đoàn đại biểu Quốc hội; tăng cường mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri thông qua cơ chế ràng buộc trách nhiệm. Phát huy tính chủ động, tự lập, trách nhiệm cá nhân của đại biểu Quốc hội và chịu trách nhiệm trước cử tri. Tiếp tục đổi mới cách thức làm việc của Quốc hội, phát huy dân chủ trong hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội có thể ban hành được nhiều quyết định có chất lượng tốt... Kỷ niệm 60 năm thành lập Quốc hội nước ta đúng vào dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang phấn khởi đón chào mùa xuân mới 2006, thi đua lập thành tích thiết thực chào mừng Đại hội X của Đảng. Tự hào với những thành tích to lớn đã đạt được trong 60 năm qua, chúng ta tin tưởng chắc chắn, trong thời gian tới Quốc hội sẽ tiếp tục phát huy mạnh mẽ tinh thần trách nhiệm, chủ động, sáng tạo, góp phần đưa dân tộc ta vững bước trên con đường đổi mới, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh 4. Thực trạng của hệ thống pháp luật như thế nào và nhu cầu hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động của các chủ thể. Hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay còn có những tồn tại nhất định cần được tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung kịp thời. Đó là hệ thống pháp luật của chúng ta còn thiếu những bộ luật, đạo luật điều chỉnh những lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội như cạnh tranh, chống độc quyền, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, quảng cáo, sở hữu trí tuệ... Việc ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phần nào đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh trước mắt các mối quan hệ xã hội quan trọng nhưng về lầu dài chúng cần được thay thế bằng các đạo luật do Quốc hội thông qua. Thứ hai, hệ thống pháp luật của chúng ta còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau và khó áp dụng trên thực tế. Các quy định điều chỉnh về cùng một vấn đề giữa các luật còn trái ngược nhau dẫn đến các cách hiểu khác nhau giữa các chủ thể, từ đó dẫn đến việc áp dụng không thống nhất. Bên cạnh đó, việc ban hành các quy định hưỡng dẫn áp dụng luật còn chậm dẫn đến tình trạng luật đã ban hành nhưng phải mất khá lâu mới có văn bản hướng dẫn thi hành luật. Thứ ba, các quy định của luật còn chung chung, nếu không có các văn bản hướng dẫn thi hành thì không thể áp dụng được. Ngoài ra, tính dự báo trong hoạt động làm luật của chúng ta chưa cao nên có nhiều luật chỉ áp dụng trong một thời gian ngắn đã phải tiến hành sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh. Trước đòi hỏi của hội nhập khu vực và quốc tế đòi hỏi chúng ta phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, cần tiếp tục ban hành những bộ luật, đạo luật quan trọng để điều chỉnh những lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, loạt bỏ những chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật. Cần hạn chế ban hành pháp lệnh để điều chỉnh những lĩnh vực của luật bởi những hạn chế nhất định của pháp lệnh như hiện nay. Đối với những pháp lệnh nào thấy có thể nâng lên thành luật thì cần ban hành luật. Các văn bản hướng dẫn thi hành luật cần được ban hành cùng với luật để khi luật được thông qua thì có thể áp dụng được ngay. Việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục rà soát lại các quy định của pháp luật quốc gia, loạt bỏ các mâu thuẫn, chồng chéo, đồng bộ hoá các quy định của pháp luật quốc gia với các quy tắc, thông lệ, tập quán và pháp luật quốc tế. Để có thể tham gia vào một sân chơi chung của khu vực, chúng ta phải từng bước tiến hành nội luật hoá các quy định của pháp luật quốc tế. Đây là một quá trình không đơn giản, bởi nó có những ảnh hưởng nhất định tới chủ quyền quốc gia, tới các nguyên tắc của pháp luật quốc gia. Song đây là một xu thế không thể tránh khỏi. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có một sự hiểu biết về hệ thống pháp luật của các quốc gia trong khu vực, các nguyên tắc, tập quán, pháp luật quốc tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà làm luật của chúng ta phải nghiên cứu các quy định của pháp luật khu vực và quốc tế trong các lĩnh vực khác nhau có liên quan đến quy định của pháp luật Việt Nam. Trong thời gian qua, để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội, cũng như nâng cao năng lực, trình độ của các đại biểu Quốc hội, Trung tâm thông tin thư viện và nghiên cứu khoa học Văn phòng Quốc hội đã tiến hành sưu tầm tài liệu, nghiên cứu chính sách và pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới về các lĩnh vực mà các dự án luật sẽ được các vị đại biểu Quốc hội thảo luận, thông qua. Hoạt động của Trung tâm thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học Văn phòng Quốc hội trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần tích cực vào việc phục vụ hoạt động thực tiễn của đại biểu Quốc hội. Có thể nói, hoạt động nghiên cứu phục vụ trực tiếp yêu cầu của đại biểu Quốc hội là hết sức cần thiết, nhằm cung cấp tới đại biểu Quốc hội những thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà các đại biểu Quốc hội quan tâm. Trên cơ sở những thông tin, tư liệu mà Trung tâm cấp, các đại biểu Quốc hội hiểu biết đầy đủ hơn, qua đó có thể đóng góp ý kiến, tham gia thảo luận, thông qua các dự án luật, các chính sách lớn của Nhà nước, góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội. KẾT LUẬN Như vậy chúng ta thấy Quốc hội giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc lập hiến và lập pháp, đồng thời quốc hội thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân. Những vấn đề nhất thiết phải được quyết định tại kỳ họp quốc hội như thảo luận và thông qua các đạo luật, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước: xem xét, thảo luận báo cáo công khai của các cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp cao nhất, bầu các chức danh cao nhất của Nhà nước.v..v..Cũng tại các kỳ họp quốc hội, quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước. Nhờ có quốc hội và thông qua các kỳ họp quốc hội mà nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân được thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật, giúp cho bộ máy nhà nước hoạt động theo những nguyên tắc tổ chức hoạt động của mình, quốc hội có nghĩa vụ liên hệ chặt chẽ với cử tri, tiếp xuc vào báo cáo với cử chi về hoạt động của quốc hội. Thông qua quốc hội mà Nhà nước thực hiện được những nhiệm vụ của mình, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện được những mục tiêu tiến đề lên xã hội chủ nghĩa, làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình “Pháp luật đại cương” – Chủ biên: TS. Nguyễn Hợp Toàn. Website: WWW.na.gov.vn . WWW.nguoidaibieu.com.vn WWW.vietnamnet.vn WWW.doisongphapluat.com.vn Tạp chí đời sống và pháp luật. MỤC LỤC Trang Phần mở đầu 1 Phần I Cơ sở lý luận và nội dung của đề tài 2 1. Những đặc trưng cơ bản 2 2. Các chức năng của quốc hội 2 2.1. Chức năng lập pháp. 2 2.2. Chức năng giám sát. 3 2.3. Chức năng quyết định các vấn đề quan trọng. 3 2.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của quốc hội. 4 3.Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. 6 4. Thực trạng của hệ thống pháp luật như thế nào và nhu cầu hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động của các chủ thể. 9 Phần II KẾT LUẬN 12 TÀI LIỆU THAM KHẢO 13

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11177.doc
Tài liệu liên quan