Trước hết, lỗi cố ý gián tếp được xác định trong trường hợp người vi phạm nhìn thấy và nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù không muốn nhưng để mặc nó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp cũng là một cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội chủa hành vi vi phạm pháp luật vì trong lỗi này tuy đã nhận thức được hậu quả của hành vi trái pháp luật mà chủ thể vẫn bỏ mặc để mặc hậu quả xảy ra. Vì vậy, dù có mong muốn hay không thì hậu quả nguy hiểm vẫn xảy ra. Vì dụ: Một người biết bơi rất giỏi đi qua đò thấy một người bị ngã xuống sông sắp chết đuối kêu cứu, anh ta nhận thức được rằng nếu không cứu thì người này sẽ chết nhưng anh ta vẫn bỏ mặc không cứu. Hành vi không cứu đã dẫn tới một hậu quả nguy hiểm là người bị ngã xuống sông đã chết.
Như vây, có thể nói lỗi cố ý gián tiếp cũng là một lỗi gây ra hậu quả hết sức nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, do đã có ý thức bỏ mặc và không mong muốn hậu quả xảy ra nên mức độ nguy hiểm của nó có giảm hơn so với lỗi cố ý trực tiếp.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2313 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sống xã hội, làm mất ổn định xã hội. Tính chất nguy hiểm của vi phạm pháp luật thể hiện là nó đã xâm hại tới lợi ích hợp pháp của cá nhân nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Từ đó, mà vi phạm pháp luật được định nghĩa như sau:
“Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ”.
Tuy nhiên, khi nhắc hành vi của chủ thể là tổ chức có thể được tội phạm hoá, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khả năng gây thiệt hại cho xã hội do vi phạm pháp luật của các tổ chức ngày càng lớn và cần được hình sự hoá. Do vậy ta có thể hiểu vi phạm pháp luật một cách cụ thể như sau:
“ Vi phạm phát luật là hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện trong điều kiện họ có thể nhận thức và kiểm soát được hành vi của mình”.
II – Các cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
Nhìn chung, để đánh giá một mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật thì có nhiều cơ sở để căn cứ nhưng cơ bản nhất là các yếu tố là: Mặt khách quan, mặt chủ quan, mặt khách thể và mặt chủ thể của vi phạm pháp luật. Nếu thiếu một trong các yếu tố này thì vi phạm pháp luật cũng không được tồn tại trong thực tế. Vi vậy đây là bốn yếu tố cơ bản để xác định mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật. Tuy nhiên trong mỗi yếu tố lại có những nội dung tác động khác nhau.
II.1 - Mặt khách quan của vi phạm pháp luật.
Nói đến mặt khách quan của vi phạm pháp luật là nói đến toàn bộ những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật, thể hiện mối quan hệ cụ thể của chủ thể vi phạm đối với quan hệ xã hội bị xâm hại của vi phạm pháp luật. Nó là cơ sở đầu tiên để đánh giá mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật bao gồm các nội dung: hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi ấy, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả và các yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh, điều kiện, phương tiện, công cụ thực hiện.
II.1.2 – Hậu quả của hành vi trái pháp luật.
Thông thường thì ta phải nói đến những hành vi trái pháp luật trước sau đó mới nói đến hậu quả nhưng trong thực tế thì những hành vi vi phạm pháp luật thường để lại ở hiện trường là những hậu quả của nó. Vì vậy, muốn xác định được vi phạm pháp luật thì phải đi từ hậu quả sau đó mới tìm được hành vi trái pháp luật.
Hậu quả là một trong những căn cứ quan trọng để xác định mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật. Vì hậu quả là trạng thái thực tế mà hành vi trái pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội. Nếu hậu quả càng lớn thì mức độ tác động trái pháp luật của hành vi càng cao và ngược lai nếu hậu quả nhỏ thì mức độ tác động trái pháp luật của hành vi lại thấp. Thông thường khi xác định mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật thông qua hậu quả thường xét theo khía cạnh là xem xét trang thái biến đổi của quan hệ xã hội do tác động của hành vi. Tại sao lại chỉ nên xét trên khía này là vì mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật chỉ được thể hiên qua nhưng hậu quả mang tính tiêu cực.
Tất nhiên, mức độ gây thiệt hại của hành vi vi phạm càng cao thì trách nhiệm pháp lý càng lớn và mức độ nguy hiểm càng cao . Ví dụ như cùng một hành vi dùng dao đâm vào người khác nhưng người A chỉ đâm vào tay khiến người bị hại chỉ bị thương, còn người B lại đâm vào tim của người bi hại khiến cho người này chết thì mức độ nguy hiểm của hành vi do người B gây ra là lớn hơn rất nhiều so với người A.
Ngoài ra nếu hậu quả càng nhiều thì mức độ nguy hiểm càng nghiêm trọng. Chẳng hạn, một người thực hiện hành vi trộm cắp bị phát hiện, người này muốn chạy thoát nên đã giết chết một người và hành vi của một tên khủng bố đặt bom làm chết rất nhiều người thì hành vi vi phạm pháp luật của tên khủng bố là có mức độ nguy hiểm hơn hành vi do tên trộm gây ra.
Tuy nhiên, nhiều khi có những vi phạm chỉ có hành vi trái pháp luật mà chưa gây ra thiệt hại thực tế. Hậu quả ở đây chỉ dừng lại ở nguy cơ gây hại. Ở đây mức độ nguy hiểm của hành vi vẫn được thể hiện dưới nguy cơ tiềm tàng. Nhưng để đảm bảo trật tư, tính nghiêm minh của pháp luật và uy quyền của nhà nước thì những hành vi này vẫn bị xử lý.
II.1.2 – Hành vi trái pháp luật.
Trước hêt, ta định nghĩa “ hành vi trái pháp luật là hành vi làm ngược lạii hoặc làm không đúng những quy định của pháp luật thể hiên ở chỗ làm không đúng điều luật cho phép ( vượt quyền); không làm hoặc làm không đầy đủ điều pháp luật buộc phải làm; làm điều pháp luật cấm.
Về nguyên tắc, hành vi trái pháp luật là dấu hiệu bắt buộc của mọi vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật được xác định dựa vào tính chất biến đổi của quan hệ xã hội bị tác động. Hành vi trái pháp luật càng có kết cấu, cơ chế phức tạp thì khả năng gây hại và mức độ nguy hiểm của nó càng cao. Ví dụ: Một chủ thể thực hiện hành vi giết người có chủ định bằng cách anh lẻn vào bệnh viện nơi người anh ta cần giết điều trị và tẩm độc vào trai nước đang truyền. Do đã đề phòng để không bị phát hiện hoặc không thành công nên cá nhân thực hiện hành vi giết người này đã thực hiện thêm một hành vi nữa là y đã tăng tốc độ truyền của chai nước truyền khiến cho người này chết nhanh chóng hơn.
Các hành vi trái pháp luật này thường diễn ra một cách lén lút, nhanh chóng và có sự che giấu rất kĩ lưỡng nên mức độ nguy hiểm tiềm ẩn trong đó là rất lớn.
II.1.3 - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Trong mối quan hệ này thì hành vi bao giờ cũng phải có trước, giữ vai trò nguyên nhân, hậu quả là cái có sau và là kết quả tất yếu của hành vi.
Dựa vào mối quan hệ nhân quả này mà ta xác định được một vi phạm pháp pháp luật do hành vi nào gây ra. Từ đó nhận định được chính xác mức độ nguy hiểm của vi phạm đó. Ví dụ: Công ty A (công ty sản xuất tơ tằm) ký hợp đồng với công ty B (công ty vận tải). Trong đó điều khoản hợp đồng có ghi đúng 8h00, ngày 20 tháng 11 năm 2008 công ty B phải đến huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh để vận chuyển 30 tấn tơ tằm về thành phố Hà Nôi (nơi có nhà máy sản xuất của công ty A ). Trong hợp đồng còn quy định các bên phải bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra. Nhưng khi thực hiện hợp đồng thì đến tận 14h00, ngày 20 tháng 11 năm 2008 công ty B mới đến địa điểm nhân hàng. Trong khi đó vào lúc 11h00 ngày 20 tháng 11 năm 2008 thì số tơ tằm này bị cháy mất 25 tấn. Công ty A khởi kiện đòi công ty B bồi thường toàn bộ thiêt hại của vụ việc. Nhưng nhờ vào mối quan hệ nhân quả của hành vi và hậu quả mà toà án nhận định rằng việc cháy 25 tấn tơ tằm không phải là do việc công ty B đến muộn (không phải là cứ đến muộn là cháy). Công ty B chỉ có hành vi trái pháp luật là vi phạm hợp đồng và phải chịu 2 – 12% phí vận chuyển. Như vậy, nhờ mối quan hệ nhân quả mà đánh giá được hành vi đến chậm không gây ra mức độ nguy hiểm là gây ra cháy 25 tấn tơ tằm.
II.1.4 – Hoàn cảnh bên ngoài, điều kiện, công cụ và phương tiện.
Cùng với hành vi trái pháp luật, hậu quả, mối quan hệ nhân quả của hành vi và hậu quả thì các yếu tố hoàn cảnh, điều kiện, công cụ, phương tiện vi phạm cũng là các mặt nội dung của yếu tố khách quan trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật. Ngoài việc tác động của hành vi thì sự trợ giúp hay hạn chế sức tác động của hoàn cảnh, điều kiện, công cụ, phương tiện ngoại cảnh có thể làm tăng lên hoặc giảm nhẹ mức độ nguy hiểm của hành vi.
Trước hết, hành vi trái pháp luật được thực hiện trong hoàn cảnh khác nhau thì có mức độ nguy hiểm khác nhau. Vi dụ như: Cùng hành vi dùng lựu đạn, nhưng trong trường hợp dùng lựu đạn để đánh bắt cá thì mức độ nguy hiểm nhẹ hơn khi dùng lựu đạn đặt vào toà nhà quốc hội.
Nếu hành vi trái pháp luật được thực hiện trong điều kiện thuận lợi thì chủ thể vi phạm có thể nhận thức được nó, chủ động tạo ra hay lợi dụng để vi phạm thì hành vi này có tính nguy hiểm cao hơn và thường thì hành vi xảy ra trong điều kiện này là có sự chủ động, chuẩn bị từ trước, do đó khả năng gây thiệt hai sẽ cao hơn, đồng thời hành vi che giấu vi phạm pháp luật sẽ được thực hiện rõ rằng hơn. Ví dụ: Một nhóm người thực hiện hành vi cướp ngân hàng trong điều kiện ngân hàng không có lực lượng an ninh bảo vệ thì hành vi vi phạm của nhóm người này sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và mức độ thiệt hại của ngân hàng sẽ nặng nề hơn là khi có lực lượng an ninh bảo vệ trong ngân hàng.
Mặt khác, khi hành vi trài pháp luật được thực hiện với những công cụ và phương tiên khác nhau thì mức độ nguy hiểm cũng sẽ khác nhau. Ví dụ: Thực hiên hành vi giết người nếu sử dụng công cụ là súng ngắn thì mức độ nguy hiểm là cao hơn khi ta sử dụng tay không.
II.2 – Khách thể của vi phạm pháp luật.
Ta định nghĩa “ khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị những hành vi vi phạm pháp luật xâm hại”.
Trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật thì việc xác định được khách thể vi phạm đóng một vai trò rất quan trọng. Bởi lẽ khi xác định được khách thể đó bị xâm phạm nhiều hay ít thì trách nhiệm pháp lý hay mức độ nguy hiểm tương ứng với hành vi xâm hại.Ví dụ: Cùng phạm tội trộm cắp tài sản, nếu trong hai vụ án có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng trong vụ án thứ nhất M trộm cắp tài sản có giá trị 450.000 đồng, còn trong vụ án thứ hai N trộm cắp tài sản có giá trị 195 triệu đồng, thì tuy cùng áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS để xử phạt các bị cáo, song cần phải quyết định hình phạt đối với N nặng hơn M. Cụ thể là M chỉ bị xử phạt hành chính còn N bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khách thể của vi phạm pháp luật được xác định qua đối tượng mà hành vi vi phạm tác động tới. Tuy nhiên, không phải cứ đối tượng tác động giống nhau thì khách thể là một. Điều này còn tuỳ thuộc vào việc xác định đối tượng ấy nằm trong quan hệ nào và mục đích của chủ thể khi tác động tới đối tượng. Việc xác định khách thể của vi phạm pháp luật nếu không căn cứ vào hai cơ sở trên thì sẽ dẫn đến việc quy kết hành vi về mặt khách quan, loại bỏ bộ phận còn lại của vi phạm pháp luật, từ đó dẫn tới việc xác định mức độ nguy hiểm và truy cứu trách nhiệm pháp lý sẽ không chính xác.
Mặt khác, đối tượng tác động của vi phạm pháp luật có thể hiểu là sự vật, hiện tượng cụ thể mà khi tác động lên nó, người vi phạm gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Đối tượng tác động của vi phạm có thể là người, hoạt động, tài sản và các đối trượng vật chất khác. Từ những đối tượng khác nhau này mà khi tác động vi pham pháp luật lại có những mức độ nguy hiểm khác nhau. Mức độ nguy hiểm cao nhất là con người và thấp nhất có thể coi là vật chất.
II.3 - Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật.
Trước hết ta xác định “mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ những hoạt động tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm khi thực hiện hành vi”. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật bao gồm ba yếu tố: Lỗi, động cơ và mục đích của vi phạm. Ba yếu tố này cũng có những giá trị khác nhất định để xác định mức độ nguy hiểm và trách nhiệm pháp lý của hành vi vi phạm pháp luật. Trong đó, lỗi là yếu tố quan trọng hành đầu trong việc xác định mức độ nguy hiểm đối với xã hội.
II.3.1 - Lỗi.
Khái niệm “ lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể vi phạm pháp luật ở thời điểm thực hiện hành vi trái pháp luật thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả trong hành vi của mình và đối với hành vi ấy”.
Lỗi là yếu tố quan trọng nhất trong mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với bất kì cá nhân nào nếu không xác định được lỗi của người đó. Từ đó, lỗi được coi là thước đo, thang đánh giá cho mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
Trong hoạt động xác định mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật để truy cứu trách nhiệm pháp lý thì việc xác định lỗi là một vấn đề vô cùng phức tạp và tế nhị. Dấu hiệu lỗi không cần xác định trực tiếp mà chỉ cần xác định người thực hiện hành vi có điều kiện nhận thức về hành vi và kiểm soát được hành vi (có điều kiện lựa chọn ứng xử hợp pháp) ở thời điểm thực hiện hành vi, vì thực tế khi con người đã đủ điều kiện nhận thức mà vẫn thể hiện hành vi trái pháp luật thì vẫn coi là có lỗi.
Trong thực tế lỗi được chia thành bốn loại là: Lỗi có ý trực tiềp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý do quá tự tin. Trong đó, mức độ nguy hiểm do bốn loại lỗi này gây ra là khác nhau.
II.3.1.1 - Lỗi cố ý trực tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp được xác định trong trường hợp người vi phạm nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Trong trường hợp này mức độ nguy hiểm cho xã hội là cao nhất vì lỗi cố ý trực tiếp bao giờ cũng có mục đích của chủ thể vi phạm với đặc trưng là “mong muốn hậu quả đó xảy ra”, chính vì thế mà chủ thể vi phạm có động lực thực hiện, có sự chẩn bị cho hành vi vi phạm của mình. Ví dụ: Một người thực hiện hành vi giết người nhằm mục đích báo thù đã dùng dao đâm nhiều phát vào tim của người bị hại nhằm giết chết người đó, bình thường thì chỉ cần đâm một nhát thì cũng có thể giết chết người bị hại nhưng do có mục đich người đã thực hiện hành vi đâm vào tim nhiều lần để chắc chắn rằng người bị hại là đã chết và những hậu quả anh ta mong muốn đã xảy ra.
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi điển hình của các chủ thể trong các vụ án hình sự nguy hiểm. Những chủ thể vi phạm này đã thể hiện rõ những thái độ mong muốn thực hiện được hành vi của mình bằng mọi cách và thậm chí là bất chấp mọi thủ đoạn để thực hiện cho bằng được. Có một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng 65 -70% các vụ án hình sự nguy hiểm ở nước ta hiện nay đều la do lỗi cố ý trực tiếp của chủ thể.
Vì vậy, lỗi cố ý trực tiếp của chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật là lỗi có mức độ cực kì nguy hiểm cho xã hội và đây cũng là lỗi mà pháp luật cần điều chỉnh nhiều nhất.
II.3.1.2 - Lỗi cố ý gián tiếp.
Trước hết, lỗi cố ý gián tếp được xác định trong trường hợp người vi phạm nhìn thấy và nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù không muốn nhưng để mặc nó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp cũng là một cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội chủa hành vi vi phạm pháp luật vì trong lỗi này tuy đã nhận thức được hậu quả của hành vi trái pháp luật mà chủ thể vẫn bỏ mặc để mặc hậu quả xảy ra. Vì vậy, dù có mong muốn hay không thì hậu quả nguy hiểm vẫn xảy ra. Vì dụ: Một người biết bơi rất giỏi đi qua đò thấy một người bị ngã xuống sông sắp chết đuối kêu cứu, anh ta nhận thức được rằng nếu không cứu thì người này sẽ chết nhưng anh ta vẫn bỏ mặc không cứu. Hành vi không cứu đã dẫn tới một hậu quả nguy hiểm là người bị ngã xuống sông đã chết.
Như vây, có thể nói lỗi cố ý gián tiếp cũng là một lỗi gây ra hậu quả hết sức nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, do đã có ý thức bỏ mặc và không mong muốn hậu quả xảy ra nên mức độ nguy hiểm của nó có giảm hơn so với lỗi cố ý trực tiếp.
II.3.1.3 - Lỗi vô ý do cẩu thả.
Lỗi vô ý do cẩu thả được xác định trong trường hợp người vi phạm không nhìn thấy và nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mặc dù có thể và cần phải nhận thức được hậu quả đó. Trong trường hợp này, chủ thể thực hiện hành vi đã không xác định mối quan hệ giữa hoạt động của mình với môi trường xung quanh diễn ra hoạt động đó.
Trong thực tế lỗi vô ý do cẩu thả thường cũng để lại một số hậu quả hết sức nguy hiểm. Ví dụ như một người bác sỹ khi tiến hầnh phẫu thuật cho bệnh nhân do không kiểm tra hết số dụng cụ phẫu thuật (mặc dù quy định bắt người bấc sỹ này phải kiểm tra hết số dụng cụ) mà đã để sót lại một dụng cụ trong người bệnh nhân và một thời gian sau thì bệnh nhân đã bị chết do sự nhiễm trùng của dụng cụ còn lại trong người.
Vì vậy lỗi vô ý do cẩu thả cũng là một cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật. Tuy mức độ nguy hiểm của nó không bằng lỗi cố ý trực tiếp và lỗi có ý giàn tiếp nhưng nó lại nguy hiểm hơn lỗi vô ý do quá tự tin.
II.3.1.4 - Lỗi vô ý do quá tự tin.
Lỗi vô ý do quá tự tin được xác định trong trường hợp người vi phạm đã nhận thức trước được mức độ nguy hiểm cho xã hội trong hành vi của mình nhưng quá tự tin rằng điều ấy không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng có thể ngăn chặn được. Ở đây, chủ thể đã loại trừ hậu quả trong ý thức là không muốn chấp nhận hậu quả. Theo đó, chủ thể không muốn chấp nhận hậu quả vì cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra nên mới thực hiện hành vi hoặc có ý thức ngăn chặn hậu quả theo khả năng hiện có của bản thân và hoàn cảnh. Tuy nhiên, do không thể lường hết được hậu quả thực tế nên đã gây ra nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: Một người bác sĩ giỏi, được công tác được công tác tại một bệnh viện có cơ sở vật chất và trang thiết bị tiên tiến. Ông đã nghiên cứu ra một loại thuốc chữa bệnh mới, nhưng do tin tưởng vào tay nghề của mình nên ông nghĩ rằng sẽ không có tác dụng phụ và nếu có thì điều kiện của bệnh viện có thể cứu chữa được nên ông đã sử dụng loại thuốc mới để chữa bệnh. Sau một vài người bệnh được sử dụng loại thuốc này mà không có tác dụng phụ thì ông lại cành tin tưởng vào loại thuốc này nhưng đến khi ông tiếp tục áp dụng chữa bệnh thì có bệnh nhân xuất hiện tác dụng phụ và đã tử vong ngay sau khi dùng thuốc.
Trước đây có nhiều ý kiến cho rằng lỗi vô ý do quá tự tin có mức độ nguy hiểm hơn lỗi vô ý do cẩu thả nhưng thực tế đã chứng minh rằng hậu quả của lỗi vô ý do cẩu thả là lớn hơn lỗi vô ý do quá tự tin. Mặt khác, khi vi phạm lỗi vô ý do quá tự tin thì chủ thể đã có ý thức ngăn chặn hậu quả nên khi hậu quả xảy ra trong thực tế một phần đã được hạn chế hơn so với hậu quả của lỗi vô ý do cẩu thả.
Tóm lại, việc xác định lỗi của chủ thể khi tham gia vi phạm là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật. Các chủ thể thực hiện những lỗi khác nhau thì mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật sẽ khác nhau.
II.3.2 - Động cơ của vi phạm pháp luật.
Trước hết, ta hiểu “động cơ vi phạm là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật”.
Trong vi phạm pháp luật không nhất thiết cần phải có động cơ. Nhưng khi xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật thì động cơ vi phạm cũng là một trong những yếu tố được chú trọng đến. Vì sao lại có sự mâu thuẫn này? Nguyên nhân là do động cơ vi phạm có thể là động cơ hèn hạ của chủ thể khi thực hiện vi phạm pháp luật và cũng có thể động cơ vi phạm là những động cơ tốt đẹp nhưng do không nhận thức được mức độ nguy hiểm mà chủ thể đã vi phạm pháp luật. Vì thế mà mức độ nguy hiểm do các kiểu động cơ này gây ra là khác nhau.
Với động cơ hèn hạ thì nó sẽ thúc đẩy chủ thể tiến hành vi phạm một cách nhanh chóng và để lại những hậu quả và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm này là vô cùng lớn. Ví dụ: Một cá nhân thực hiện hành vi giết người với động cơ là để báo thù thì người đó sẽ thực hiện hành vi giết người đó bằng mọi cách và với mức độ nguy hiểm hơn so với bình thường.
Với những động cơ tốt nhưng do không nhận thức được mức độ nguy hiểm của hành vi nên đã gây ra vi phạm thì mức độ nguy hiểm của nó giảm nhẹ hơn. Chẳng hạn, một bác sĩ muốn cứu bệnh nhân nên đã sử dụng phương pháp điều trị mới mà chưa qua kiểm nghiệm dẫn đến thiệt mạng cho bệnh nhân thì động cơ của hành vi này là động cơ tốt nhưng do không kiểm soát hết được hậu quả nên gây ra vi phạm pháp luật.
II.3.3 - Mục đích của vi phạm pháp luật
Mục đích vi phạm là kết quả trong ý thức mà chủ thể vi phạm pháp luật đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Mục đích vi phạm sẽ thúc đẩy hành vi vi phạm pháp luật của chủ thể. Vì vậy với các mục đích khác nhau thì có những hành vi vi phạm pháp luật khác nhau và mức độ nguy hiểm giữa các hành vi này cũng khác nhau. Ví dụ: Một người giết người khác để nhằm cướp tài sản sẽ có mức độ nguy hiểm hơn là một người vi phạm luật giao thông trong khi trở người nhà đi cấp cứu ở bệnh viên.
II.4 - Chủ thể của vi phạm pháp luật
Khi nói đến chủ thể của vi phạm pháp luật ta có thể định nghĩa như sau: “ Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật”.
Ta có thể cá nhân hoá chủ thể là tổ chức vì trong tổ chức bao gồm các cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Vì thế khi xét mặt chủ thể trong vi vi phạm pháp luật để xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội ta thường quy về chủ thể là cá nhân.
Do các đặc điểm về xã hội, về tâm lý, về sinh học của mỗi cá nhân trong xã hội là hoàn toàn khác nhau dẫn đến tính chất hành vi, cũng như hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các vi phạm pháp luật do họ thực hiện cũng không giống nhau. Vì vậy, khi xem xét đánh giá vi phạm pháp luật của những chủ thể có điều kiện môi trường xã hội giống nhau, thì mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân lại được phân hoá theo độ tuổi, tình trạng nhận thức, điều khiển hành vi và tư cách pháp nhân của chủ thể.
Thứ nhất, căn cứ vào độ tuổi thì những người có độ tuổi khác nhau thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm sẽ khác nhau. Những người có độ tuổi trưởng thành sẽ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm, dễ dàng hơn người già và trẻ em. Ví dụ: Khi thực hiện hành vi cướp ngân hành thì những người thanh niên thực hiện hành vi này thuận lợi hơn và để lại mức độ thiệt hại nhiều hơn khi để một ông già hay một đứa trẻ đi thực hiện.
Thứ hai, khi dựa vào tình trạng nhận thức thì những người có đủ trình độ nhận thức mà vẫn vi phạm pháp luật thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ là lớn hơn. Vì những người này đã nhận thức được hành vi trái pháp luật mà vẫn thực hiện thì họ sẽ quyết tâm thực hiện đến cùng và để lại hậu quả là rất nặng nề. Ví dụ: Một số quan chức nhận thức được hành vi nhận hối lộ là vi phạm pháp luật nhưng họ vẫn thực hiện thì mức độ họ thực hiện sẽ cao hơn và mức độ nguy hiểm, thiệt hạ cho xã hội nói chung và Nhà nước nói riêng là nghiêm trọng hơn rất nhiều.
Ngoài ra, việc nghiên cứu nhân thân của chủ thể vi phạm pháp luật có ý nghĩa đối với việc đinh tội và mức độ nguy hiểm của hành vi. Đó là những hành vi mà cấu thành tội phạm cơ bản hoặc cấu thành tội phạm tăng nặng hay giảm nhẹ của những tội này có dấu hiệu phản ảnh đặc điểm nào đó về nhân thân của người phạm tội
Ví dụ 1: Cấu thành tội phạm cơ bản của tội hiếp dâm đòi hỏi chủ thể phải là nam giới.
Ví dụ 2: Cấu thành tội phạm tăng nặng của tội cưỡng đoạt tài sản đòi hỏi chủ thể có đặc điểm là tái phạm nguy hiểm.
Việc nghiên cứu nhân thân chủ thể phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định hậu quả của hành vi; Qua nghiên cứu nhân thân người phạm tội không chỉ đánh giá được khả năng giáo dục cải tạo của người phạm tội mà còn giúp đánh giá được tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để có hình phạt phù hợp. Cùng một hành vi nhưng ở người này là biểu hiện ngẫu nhiên đột xuất nhưng ở người khác là hành vi có tính toán, có ý thức sâu sắc biểu hiện bản chất của người pham tội. Hành vi và con người luôn có quan hệ với nhau cho nên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng phụ thuộc vào tính chất của con người.
Theo số liệu thống kê tội phạm học, trẻ vị thành niên phạm tội có nguồn gốc gia đình làm nghề buôn bán bất hợp pháp chiếm 51,94%, gia đình có người phạm tội hình sự chiếm 40%. Cứ 10 trẻ phạm tội thì có đến ba trẻ có bố, mẹ hoặc cả hai nghiện hút. Nghiên cứu của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn nàn bố mẹ không đáp ứng nhu cầu cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ.
Những ngày gần đây, trên báo chí đăng tải những vụ án hình sự chết người mà tội phạm gây ra những vụ án đó là những đứa trẻ còn chưa qua tuổi vị thành niên. Qua những trang báo, thấy các tiêu đề mà không ai lướt qua không khỏi sửng sốt: "Trẻ vị thành niên phạm tội giết người"... Ngày 12/08, báo chí đưa tin “Học sinh lớp 8 giết người vì chiếc nồi cũ”,... "Em là Nguyễn Văn Tú, học sinh lớp 8 Trường THCS Tiền Phong. Em phạm tội giết người vì ăn trộm... chiếc nồi cũ bên nhà cô hàng xóm. Trong lúc bị cô phát hiện, vì đã quá sợ hãi, con quỉ ác ngự trị trong em đã khiến em xuống những nhát dao giết người man dợ..."
III - Một số thực trạng của mức độ vi phạm ở Việt Nam.
Trong xã hội nước ta hiện nay thì mức độ nguy hiểm của những hành vi vi phạm pháp luật là rất lớn. Các vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm tăng lên cả về số lượng lẫn mức độ.
Các vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm mang tính chất tổ chức ngày càng nhiều và có rất nhiều vụ tái phạm thậm chí là tái phạm nhiều lần làm cho tính nguy hiểm ngày càng tăng lên và khó kiểm soát. Theo báo cáo thống kê của 30 tỉnh, thành phố cho đến năm 1999, chúng ta đã phát hiện được 224 băng nhóm với 1596 tên điển hình là những băng nhóm như Phúc Bồ, Khánh Trắng ở Hà Nội, Hùng Bo, Tài lừa ở T.P. Hồ Chí Minh…và gần đây có những vụ án gây thiệt hại nặng nề cho xã hội như là vụ tham những ở PMU 18, Scandan Việt Nam Ariliens…
Tuy xuất hiện các vụ có những thiệt hại nặng nề như vậy nhưng thực trạng ở nước ta thì việc xác định, đánh giá mức độ nguy hiểm của các hành vi để truy cứu trách nhiệm pháp lý vẫn còn nhiều hạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Căn cứ đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật.doc