Tiểu luận Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

 

MỤC LỤC

Trang

 

A./LỜI MỞ ĐẦU.1

B.NỘI DUNG.1

I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự.1

1./ Khái niệm.1

2/.Bản chất của hợp đồng.2

II./ Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định

của pháp luật Việt Nan hiện hành.4

1/.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự.4

2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp

luật Việt Nam hiện hành.6

III./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng

dân sự, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện.16

1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân

sự và thực tiễn áp dụng.16

2./ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định hiện hành về hình

thức hợp đồng.18

C.KẾT LUẬN.20

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8032 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g được thiết lập hợp pháp có hiệu lực như pháp luật cho các bên giao kết ước”. Hiệu lực hợp đồng, còn được gọi là hiệu lực pháp luật của hợp đồng, là để chỉ sự cưỡng chế của pháp luật đối với các bên đương sự tham gia hợp đồng và thậm chí cả bên thứ ba, theo quy định của pháp luật về vấn đề này có một số điểm cần lưu ý sau: - Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ nguồn luật, là do pháp luật hợp đồng trao cho hợp đồng, đồng thời cũng là sự bảo đảm khả năng cưỡng chế của Nhà nước. Khi người vay nợ vi phạm hợp đồng, pháp luật căn cứ vào đơn yêu cầu của bên không vi phạm, cưỡng chế bên vi phạm hợp đồng thực hiện hợp đồng, hoặc phải chịu những hậu quả bất lợi khác. Như vậy có thể thấy rằng, hiệu lực hợp đồng không giống như sự ràng buộc của tình hữu nghị, hay ràng buộc của đạo đức. - Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ thể hiện của ý chí, đó là biểu hiện của sự thừa nhận của pháp luật đối với sự thống nhất về ý chí của các bên đương sự. Đồng thời cũng là căn cứ và ủng hộ các bên đương sự nhằm thỏa mãn yêu cầu muốn “ tìm kiếm” pháp luật. Nó cũng là kết quả của việc đưa ý chí của bản thân phù hợp với ý chí Nhà nước. Khi ý chí của các bên đương sự thống nhất hữu cơ với ý chí của Nhà nước, thì sự thể hiện cao nhất đó chính là thể hiện của đương sự. VD: Cho phép đương sự căn cứ theo ý muốn của bản thân hạn chế phạm vi hiệu lực của hợp đồng, cho phép đương sự tự do lựa chọn cách giao hàng, cho phép đương sụ sửa đổi hợp đồng hoặc chuyển nhượng nghĩa vụ quyền lợi... Tất cả những điều này thể hiện rõ hiệu lực hợp đồng chỉ là sự cụ thể hóa hiệu lực pháp luật, chứ không phải bản thân hiệu lực pháp luật -Hiệu lực hợp đồng với tư cách là biểu hiện của pháp luật, đánh giá sự nhất trí của các bên đương sự , là một vấn đề hết sức phức tạp: Khi pháp luật khẳng định sự đánh giá vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ phát sinh hiệu quả pháp luật như đương sự mong muốn, các bên đương sự sẽ được hưởng quyền lợi, quyền lợi mà điều khoản hợp đồng ràng buộc, còn khi pháp luật phủ định sự vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ nảy sinh hậu quả không có hiệu lực của hợp đồng. -Hiệu lực hợp đồng, tức là khả năng cưỡng chế của pháp luật đối với các đương sự có sự ràng buộc, thậm chí là bên thứ ba trong hợp đồng. Có thể chia thành sự ràng buộc giữa các bên đương sự và sự ràng buộc đối với bên thứ ba. Sự ràng buộc của hợp đồng đối với các bên đương sự bao gồm: +Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các đương sự +Bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm vi phạm theo hợp đồng +Các bên đương sự không được tự ý thay đổi hoặc hủy hợp đồng, không thể tự ý chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của hợp đồng +Đương sự có quyền lợi yêu cầu, trao đổi, quyền xử lý nợ Hợp đông có hiệu lực đối với bên thứ ba, trong những trường hợp thông thường nó được thể hiện là bất kỳ một bên thứ ba nào cũng không được xâm hại quyền trong hợp đồng. Khi người có quyền trong hợp đồng tự hủy bỏ quyền hoặc ủy quyền cho bên thứ ba khi đó mới xác lập hiệu lực thực hiện hợp đồng cho bên thứ ba hoặc do bên thứ ba thực hiện. 2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự nên muốn có hiệu lực, hợp đồng dân sự phải đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã được quy định tại điều 122 BLDS năm 2005. Theo quy định trên, thì các hợp đồng dân sự được coi là có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: -Điều kiện về chủ thể -Điều kiện về mục đích và nội dung -Điều kiện về ý chí của chủ thể -Điều kiện về hình thức a./Người tham gia giao dịch trong hợp đồng dân sự có năng lực hành vi dân sự Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều quy định chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, mặt khác năng lực hành vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không giống nhau *Đối với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ -Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Đó là những người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự dầy đủ có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự. -Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Khoản 2 điều 20 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp người từ đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lâp, thực hiện hợp đồng dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác ’’. Như vậy, nếu pháp luật có quy định khác thì giao dịch dân sự của người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi ( mặc dù người này có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ ) phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, nếu phjaps luật quy định với các giao dịch dân sự liên quan đến người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi (mặc dù có người đại diện) buộc phải được sự đồng ý bằng văn bản của người này thì hợp đồng cũng phải đáp ứng quy định này. Chẳng hạn, khoản 2 điều 109 BLDS năm 2005 quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng”. -Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi được xác định là những người mà sự nhận thức và làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ, do đó họ có thể có những hạn chế nhất định. Vì lẽ đó, trên cơ sở quy định tại điều 20 BLDS, chúng ta thấy rằng người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi khi xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. -Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: Những người này không được xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự. Ngoài ra, khi xem xét đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc tham gia hợp đồng dân sự cũng cần chú ý đến những trường hợp riêng biệt do pháp luật quy định, đó là tham gia hợp đồng dân sự của người giám hộ, người đại diện ( vì lợi ích của người được giám hộ, người được đại diện) phải tuân theo các quy định về giám hộ, về đại diện trong BLDS. *Đối với pháp nhân: Pháp nhân là những tổ chức có đủ các điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự có đủ năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định thành lập pháp nhân. Việc tham gia và thực hiện hợp đồng của pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể là người đứng đầu pháp nhân đó ( nếu pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp), đối với pháp nhân là các doanh nghiệp thì đại diện theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị-chủ tịch hội đồng thành viên hoặc giám đốc, tổng giám đốc tùy thuộc vào quy định trong điều lệ và trong giấy phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia giao kết các hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền được xác định trổng quy định thành lập pháp nhân hoặc trong điều lệ, nội quy hoạt động của pháp nhân đó. Người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là người được đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền, người này ủy quyền cho pháp nhân để tham gia các hợp đồng dân sự trong phạm vi được ủy quyền. *Đối với hộ gia đình: Xuất phát từ việc hộ gia đình là chủ thể hạn chế của chủ thể hạn chế quan hệ pháp luật dân sự nên các hợp đồng dân sự mà các hộ gia đình tham gia phải là những hợp đồng dân sự được phép theo quy định của pháp luật. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Khi tham gia hợp đồng dân sự, chủ hộ (là người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình) cóa thể trực tiếp tham gia hoặc có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ gia đình trong hợp đồng dân sự đó. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Thông thường, hợp đồng dân sự do chủ hộ hoặc thành viên đã thành viên khác được chủ hộ ủy quyền xác lập, thực hiện vì lợi ích của hộ gia đình sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình tròn hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, đối với việc định đoạt tư liệu sản xuất hoặc tài sản chung của hộ gia đình mà có giá trị lớn thì buộc phải có sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình từ đủ 15 tuổi trở lên, đối với các loại tài sản chung khác phải được sự đồng ý của đa số các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên. *Đối với tổ hợp tác: Các hợp đồng dân sự tổ hợp tác tham gia cũng là những hợp đồng bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Tổ hợp tác chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến các hoạt đọng sản xuất kinh doanh của tổ. Khi tham gia hợp đồng dân sự , tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp luật của tổ hợp tác. Ngoài việc trực tiếp đại diện cho tổ hợp tác tham gia hợp đồng dân sự, tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho ủy viên thực hiện những công việc cần thiết cho tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý, đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý. Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải phù hợp với giới hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể. b. /Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4) Nhưng để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của cá cbên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (giao dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122). Mục đích của hợp đồng dân sự là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà các bên mong muốn đạt dược khi xác lập hợp đồng đó. Để đạt được mục đích này, trong hợp đồng dân sự có thể ghi nhận các quyền và nghĩa vụ nhất định. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có thể do một bên đưa ra, cũng có thể do các bên thỏa thuận. Tuy vậy, trong mọi trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 128). Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích của của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó”. Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này đòi hỏi họ phải thỏa thuận được nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như : Đối tượng ( vật bán), giá cả, thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng. Sự thỏa thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản. Như vậy, để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạo đức xã hội theo nghĩa rộng : không vi phạm điều cấm của pháp luật , không xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì thế chỉ những tài sản được phép giao dịch , những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm pháp luật, không trái với đạo đức xã hội mới là đối tượng của hợp đồng dân sự, những hợp đồng xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc tái với đạo đức xã hội là những hợp đồng có nội dung và mục đích không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của hợp đồng đó. c./ Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác. Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác không thể biết được. Có tác giả cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Tự nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”. Không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ không có sự tự nguyện. Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự nguyện, thì có thể bị vô hiệu hoặc đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp không có sự tự nguyện là những trường hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng không đúng ý chí đích thực của chủ thể hoặc không có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày tỏ ý chí của chính chủ thể đó ra bên ngoài. Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm trường hợp sau đây: -Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự giả tạo : Là hợp đồng dân sự đượ xác lập nhằm che giấu một hợp đồng khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trên cơ sở các định mục đích của việc xác lập hợp đồng dân sự giả tạo thì hợp đồng dân sự do giả tạo được phân chia thành hai trường hợp: +Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một hợp đồng khác. Trong trường hợp này có hai hợp đồng song song tồn tại – đó là hợp đồng đích thực ( bên trong ) và hợp đồng giả tạo ( hợp đồng che giấu, thể hiện ra bên ngoài ). Ví dụ : Ông A tặng cho con út của mình là B một ngôi nhà, nhưng vì lý do tế nhị (sợ rằng điều này có thể là nguyên nhân gây mâu thuẫn giữa những người con), ông A và B đã ký hợp đồng mua bán nhà. Ở đây có hai hợp đồng cùng tồn tại, đó là hợp đồng tặng cho nhà ở (hợp đồng bên trong, hợp đồng đích thực) và hợp đồng mua bán nhà ở (hợp đồng bên ngoài, hợp đồng giả tạo). =>Hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng khác luôn luôn vô hiệu, còn hợp đồng đích thực( hợp đồng bên trong) vẫn có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, nếu hợp đồng đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự thì có thể vô hiệu. +Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba: Trong trường hợp này, hợp đồng dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp: Bản thân chủ thể tham gia hợp đồng dân sự đã tồn tại một nghĩa vụ với chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập hợp đồng giả tạo( ví dụ :Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài sản, A đã ký hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là B để tránh trường hợp ngôi nhà đó có thể bị xử lí để thực hiện nghĩa vụ của A). Và khi tham gia hợp đồng, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập hợp đồng với sự giả tạo. Trên thực tế, còn có những trường hợp một hợp đồng dân sự được thể hiện ra bên ngoài nhưng hoàn toàn không có thực và cũng không nhằm che giấu một hợp đồng nào cả. Đây là hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự tượng tưởng. -Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn: Nhầm lẫn là sự không trùng hợp ý chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí. Hay nói cụ thể hơn, đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể, đối tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý nguyện đích thực của mình. Ví dụ: Người mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo hiểm thì được hưởng tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế là điều khoản bảo hiểm đã có những loại trừ nên một số loại rủi ro sẽ không được bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng. Hợp đồng bị nhầm lẫn phải chịu trách nhiệm dân sự tại điều 131 BLDS 2005. -Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự lừa dối: Diều 132 BLDS 2005 quy định: “ lừa dối là hành vi cố ý trong một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng dân sự nên đã xác lập hợp đồng đó”. Như vậy, hành vi lừa dối có thể được thực hiện bởi một bên trong hợp đồng, nhưng cũng có thể được thực hiện bởi người thứ ba với lỗi cố ý. Mục đích của việc lừa dối là nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng (ví dụ : bán hàng do Trung Quốc sản xuất nhưng lừa dối người mua là hàng do Nhật Bản sản xuất, bán ngọc trai nhân tạo nhưng lại lừa dối người mua là ngọc trai tự nhiên... ). -Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự đe dọa: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”. Sự đe dọa thường được hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo lực vật chất hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng kháng cự nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ. -Hợp đồng dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình: Đây là trường hợp bản thân chủ thể vẫn hoàn toàn nhận thức, làm chủ được hành vi của mình nhưng đúng vào thời điểm xác lập hợp đồng dân sự thì họ lại không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, ví dụ như : Say rượu bia kí hợp đồng. Việc không nhận thức và làm chủ được hành vi của chủ thể khi xác lập hợp đồng có thể do ý chí chủ quan của người này nhưng cũng có thể do chủ thể khác hoặc do nguyên nhân khách quan... Đây là yếu tố hết sức quan trọng cần phải được xác định cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khi tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu. d./Hình thức của hợp đồng dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật Hình thức là một yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng, có quan hệ biện chứng với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, và là phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên, cũng như để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng. Người ta sẽ không biết đến sự tồn tại của hợp đồng, nếu nó không được thể hiện dưới một hình thức xác định. Hợp đồng dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể . Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng kí hoặc phải xin pháp thì phải tuân theo các quy định đó. -Hình thức bằng lời nói: Hình thức này thường thấy trong các hợp đồng dân sự mà giá trị của hợp đồng nhỏ, giữa các chủ thể của hợp đồng có sự tin cậy. Ngoài ra, hình thức này có thể thấy trong các hợp đồng dân sự mà ngay sau khi các bên thỏa thuận xong về điều khoản cơ bản của hợp đồng, các bên thực hiện hợp đồng ngay sau đó và hợp đồng chấm dứt. Đối với hình thức lời nói, các bên thỏa thuận xong về các điều khoản cơ bản của hợp đồng thì hợp đồng được coi là giao kết. Nhưng cũng có trường hợp hợp đồng dân sự nếu được thể hiện bằng hình thức lời nói phải đảm bảo tuân thủ những điều kiện luật định mới có giá trị. -Hình thức bằng văn bản thường: Các bên thám gia hợp đồng dân sự thỏa thuận hoặc pháp luật quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng hình thức văn bản. Nội dung hợp đồng được thể hiện trên văn bản có chữ kí xác nhận của chủ thể. Cho nên hình thức này là chứng cứ xác nhận chủ thể đã tham gia vào một giao dịch dân sự rõ ràng hơn nhiều trường hợp hợp đồng dân sự được thể hiện bằng lời nói. -Hình thức bằng văn bản có công chứng chứng nhận, UBND cấp có thẩm quyền chứng thực được áp dụng trong những trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng dân sự bắt buộc phải được lập thành văn bản hoặc các bên có thỏa thuận phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc xin phép thì khi xac lập hợp đồng các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó. -Hình thức bằng hành vi cụ thể : Hợp đồng không có sự thỏa thuạn giữa các bên mà mặc nhiên coi là có sự thỏa thuận khi một bên bằng hành vi của mình chấp nhận giao kết hợp đồng thông qua sự ấn định trước q uyền và nghĩa vụ của bên kia. Hình thức này cũng phổ biến trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi công nghệ ngày càng phát triển với sự tự đọng hóa được áp dụng ở nhiều nơi, đặc biệt là các thành phố, thị xã như: Bán hàng qua máy tự động, rút tiền ở các máy do các ngân hàng đặt ở những vị trí khác nhau. Ngoài ra, hợp đồng dân sự cũng có thể được giao kết thông qua phương tiện điện tử theo quy định tại khoản 1 điều 124 BLDS 2005. III. /Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp do chưa nắm vững các quy định của pháp luật về hợp đồng nên khi xác lập, thực hiện hợp đồng các bên chủ thể không đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật thường làm cho hợp đồng rơi vào tình trạng không có hiệu lực. Mặt khác, do không nắm vững được các nghĩa vụ cũng như quyền lợi của mình nên trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên kia, vì vậy nhiều tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Đặc biệt, hợp đồng dân sự vi phạm về hình thức diễn ra hết sức phổ biến trong xã hội và những quy định về hình thức hợp đồng trong pháp luật nước ta vẫn còn nhiều bất cập. 1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự và thực tiễn áp dụng a./Quy định về hình thức hợp đồng vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, chưa nhất quán, chưa đảm bảo lô gích pháp lý giữa các điều luật liên quan Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 qui định: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Trong quy định này, nhà làm luật chỉ đề cập đến ‘trường hợp pháp luật có qui định”, mà không dự liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc quy định như vậy là thiếu sót. Bởi lẽ, pháp luật không cấm các bên thỏa thuận xác lập hợp đồng theo một hình thức xác định. Trong luật thực định, đối với nhiều loại hợp đồng, pháp luật cũng cho phép các bên được tự do lựa chọn hình thức thích hợp để giao kết hợp đồng. Ví dụ: “Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản” (khoản 2 Điều 142). Trên thực tế, đối với các loại hợp đồng pháp luật không quy định hình thức bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa thuận hình thức là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ: các bên có thể thỏa thuận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, hoặc hợp đồng mua bán kim cương… phải được lập bằng văn bản theo thủ tục công chứng thì mới có hiệu lực, mặc dù pháp luật không quy định bắt buộc các hợp đồng kể trên phải được lập bằng văn bản có công chứng. Mặt khác, việc điều luật quy định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHọc kỳ dân sự- Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.doc
Tài liệu liên quan