Mục lục
Lời nói đầu1 1
Chương 1:Cơ sở lý luận của sự ra đời của quan hệ tín dông2 2
Chương 2: Các hình thức tín dụng 3 3
I.Bản chất của tín dông3 3
1.Khái niệm3 3
2.Đặc trưng của tín dông3 3
II.Các hình thức tín dông4 4
1.Tín dụng ngắn hạn4 4
2.Tín dông trung và dài hạn5 5
3.Tín dụng thương mại6 6
4.Tín dụng ngân hàng8 8
5.Tín dụng nhà nước11 11
6.Tín dông doanh nghiệp12 12
Chương 3:Thực trạng và giải pháp về tình hình tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam.14 14
1.Thực trạng14 14
2.Giải pháp14 14
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3266 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các hình thức tín dụng ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn tạm thời.Nếu mâu thuẫn này không được giải quyết thì quá trình sản xuất bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn lại nằm im ở chủ thể khác.Kết quả là nguồn nhân lực xã hội không được sử dụng một cách hiệu quả để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục.Sản xuất càng phát triển thì nhu cầu về vốn càng nhiều, mâu thuẫn trên càng sâu sắc.Mâu thuẫn trên đã được giải quyết bằng sự gặp gỡ giữa người thừa vốn và người thiếu vốn tạm thời để chuyển nhượng giá trị sử dụng vốn cho nhau, quan hệ tín dụng phát sinh.Sở dĩ mâu thuẫn trên được giải quyết là do đối với mỗi chủ thể kinh tế có sự chênh lệch về thu nhập và tiêu dùng.Chính vì thế mới xảy ra hiện tượng có người tạm thời thừa vốn và có người tạm thời thiếu vốn.
Chương 2:Các hình thức tín dụng
I.Bản chất của tín dụng
1.KHÁI NIỆM
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người cho vay sang người đi vay và sau một thời gian nhất định lượng giá trị đó trở về tay người sở hữu nhưng lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
2.ĐẶC TRƯNG CỦA TÍN DỤNG
- Quan hệ tín dụng là mối quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm thời.
Đối tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc là hàng hoá dưới hình thức kéo dài thời gian thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hoá.Tính chất tạm thời của sự chuyển nhượng để cập đến thời gian sử dụng lượng giá trị đó.Nó là kết quả của sự thoả thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó.Sự thiếu phù hợp của thời gian chuyển nhượng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi tài chính và hoạt động kinh doanh của cả hai bên và dẫn đến nguy cơ phá huỷ quan hệ tín dụng.Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
- Quan hệ tín dụng có tính hoàn trả.
Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả đúng hạn cả về thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận:gốc và lãi.Phần lãi phải đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu.Sự chênh lệch này là giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời.Nói cách khác, nó là giá trả cho cho sù hy sinh quyền sử dụng vốn hiện tại của người sở hữu vì thế nó phải đủ hấp dẫn để người sở hữu có thể sẵn sàng hy sinh quyền sử dụng đó.
- Quan hệ tín dụng phải dùa trên sự tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay.
Do có sự chuyển nhượng tạm thời về quyền sử dụng nên quan hệ tín dụng chỉ phát sinh khi người cho vay tin tưởng rằng đồng vốn của họ được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và phải có khả năng được hoàn trả cả gốc lẫn lãi.Về phần người đi vay, họ phải tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn đi vay.Sự gặp gỡ giữa người đi vay và người cho vay về điểm này là điều kiện hình thành nên quan hệ tín dụng.Cơ sở của sự tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay, do giá trị tài sản thế chấp và do sự bảo lãnh của người thứ ba.
II.Các hình thức tín dụng
1.TÍN DỤNG NGẮN HẠN.
Tín dụng ngắn hạn là các khoản cho vay mà thời hạn không quá 12 tháng nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ xung ngân quỹ, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, bổ xung nhu cầu vốn lưu động hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân.Đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về lãi suất, về lạm phát cũng như sự bất ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô.Vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín dụng khác.Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay từng lần hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần tài sản đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Tín dụng ngắn hạn trong những trường hợp sau:
- Ngân hàng cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước thường dưới hình thức ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc phát hành.Khả năng hoàn trả của Nhà nước là rất cao.
- Ngân hàng cho vay đối với các tổ chức tài chính như các ngân hàng, các công ty tài chính, quỹ tín dụng,...nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Một số công ty chứng khoán vay vốn ngắn hạn của ngân hàng thương mại trong quá trình bảo lãnh và phân phối chứng khoán cho công ty phát hành.Hình thức cho vay có thể cho vay trực tiếp (trên thị trường liên ngân hàng) hoặc cho vay gián tiếp thông qua nắm giữ chứng khoán.Phần lớn các khoản vay này đều dùa trên uy tín của người vay, phần còn lại dùa trên bảo lãnh của người thứ 3 hoặc dùa trên cầm cố chứng khoán thanh khoản cao.
- Ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh, để xây dựng mở rộng, cải tiến, sửa chữa tài sản cố định.Phần lớn các khoản vay này có thế chấp hoặc cầm cố tài sản.
Ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu, gồm cho vay xuất, nhập khẩu và cho vay thanh toán.Cho vay xuất, nhập khẩu có rủi ro khá cao, liên quan đến quan hệ thanh toán quốc tế.
- Ngân hàng cho vay để phát triển đất đối với các công ty xây dựng và phát triển đô thị.Khoản vay này thường có thế chấp bằng chính động sản của người vay.
- Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển....Cho vay tiêu dùng có thể gồm tín dụng trực tiếp đối với người tiêu dùng, hoặc gián tiếp thông qua việc ngân hàng mua lại các phiếu(hoá đơn) bán hàng của các nhà bán lẻ hàng hoá.
2.TÍN DÔNG TRUNG, DÀI HẠN.
Tín dông trung, dài hạn có thời hạn cho vay trên 1 năm đến vài chục năm.Nó thường được sử dụng để phát triển quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc theo chiều sâu và kết quả là tăng mức sản xuất và của cải xã hội.Vì thời hạn dài và hiệu quả đầu tư thường là dự tính nên loại tín dụng này chứa đựng mức rủi ro cao, kể cả rủi ro cá biệt và rủi ro hệ thống.Mức rủi ro và do đó lãi suất tăng lên cùng thời hạn vay.
Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ...Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao.
Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển.Vai trò của Nhà nước trong phát triển ngày càng được nhấn mạnh đặc biệt tại các nước đang phát triển, nơi mà khả năng tích luỹ của các doanh nghiệp chưa cao.
Các ngân hàng mua trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định.Kỳ hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai...đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu.
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định...nhằm thực hiện những dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng.Một trong những yêu cầu của Ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện đầu tư dự án (sản xuất kinh doanh).Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
3.TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI
Tín dụng thương mại là mối quan hệ trực tiếp giữa người đi vay và người cho vay không thông qua các trung gian tài chính.Nó được thực hiện dưới hình thức hàng hoá: người cho vay chuyển một lượng giá trị hàng hoá, tiền tệ cho người đi vay, lượng hàng hoá này nằm trong quá trình tái sản xuất.
Việc xuất hiện quan hệ tín dụng thương mại là tất yếu vì sự cách biệt giữa thời gian tiêu thụ và thời gian sản xuất, làm cho có doanh nghiệp có hàng muốn bán nhưng chưa cần tiền ngay trong khi có doanh nghiệp cần hàng nhưng chưa thanh toán ngay được .Quan hệ bán chịu này cho phép giải quyết được mâu thuấn này và thoã mãn nhu cầu cả hai phía.
Cơ sở pháp lý để xác định nợ nần trong quan hệ tín dụng thương mại là thương phiếu.Đây là lại giấy chứng nhận nợ đặc biệt xác định quyền đòi nợ của người sở hữu thương phiếu và nghĩ vụ phải hoàn trả nợ của người mua khi đến hạn.Thương phiếu có những đặc điểm sau:
- Tính trừu tượng: trên thương phiếu không ghi nguyên nhân cụ thể phát sinh khoản nợ mà chỉ có các thông tin liên quan đến số tiền phải trả, thời hạn và địa điểm của người trả tiền
- Tính pháp lý: đảm bảo người mua phải hoàn trả đầy đủ số tiền ghi trên thương phiếu khi đến hạn mà không được quyền từ chối hay trì hoãn.
- Tính chuyển nhượng:là khả năng thương phiếu được sử dụng như một phương tiện thanh toán chi trả thay cho tiền trong phạm vi thời hạn hiệu lực và mệnh giá thương phiếu.Khả năng có thể chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng để đổi lấy tiền mặt trước hạn của thương phiếu càng làm tăng thêm tính chuyển nhượng của nó.
Thương phiếu có thể do người bán hoặc do người mua lập dưới hình thức thương phiếu vô danh, ký danh hay định danh.
* Thương phiếu vô danh: là loại thương phiếu không ghi tên người đựơc hưởng do đó người sở hữu thương phiếu hợp pháp chính là người thụ hưởng khi đến hạn
* Thương phiếu hữu danh: là thương phiếu có ghi rõ tên người được hưởng, nhưng do tính chất chuyển nhượng thương phiếu này lại có hai hình thức:
+ Thương phiếu ký danh có ghi tên người được hưởng nhưng vẫn được quyền chuyển nhượng bằng cách ký hậu.
+Thương phiếu định danh là loại thương phiếu mà chỉ có tên người trên thương phiếu mới được quyền đòi tiền thương phiếu khi đến hạn, nó không được phép chuyển nhượng quyền đòi tiền cho người khác.
Sau khi phát hành và được chấp nhận, thương phiếu có đủ cơ sở pháp lý để lưu hành.Người sở hữu thương phiếu có thể giữ thương phiếu cho đến hạn thanh toán, có thể dùng để chi trả trong các quan hệ thanh toán hoặc có thể mua bán trên thị trường dưới hình thức chiết khấu.Thủ tục ký chuyển nhượng sẽ được thực hiện ở mặt sau thương phiếu mỗi khi thương phiếu được chuyển sang tay người khác.
Tín dụng thương mại với công cụ thương phiếu đã đáp ứng được nhu cầu tín dụng trực tiếp thường xuyên nảy sinh giữa các doanh nghiệp do sự khác biệt về đặc điểm kinh doanh và luân chuyển vốn.Là loại tín dụng ngắn hạn, thời hạn biến động từ 30, 60, 90 hoặc 270 ngày, thủ tục đơn giản , thuận tiện, tín dụng thương mại được sử dụng phổ biển để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.Mặt khác sự phát triển tín dụng thương mại tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu- một hình thức cho vay Ýt rủi ro.
Hạn chế chủ yếu của tín dụng thương mại xuất phát từ bản chất tín dụng trực tiếp bằng hàng hoá.Vì người cho vay chỉ có thể cho vay số vốn mà mình sở hữu nên quan hệ tín dụng bị giới hạn về quy mô, thời hạn và phương hướng vận động.Quy mô mỗi quan hệ tín dụng thương mại bị giới hạn trong phạm vi lượng giá trị hàng hoá được bán chịu, đến lượt nó hàng hoá này lại phụ thuộc vào quy mô sản xuất của doanh nghiệp.Vì thế nếu nhu cầu mua chịu cao hơn so với lượng hàng hoá có thể bán chịu thì quan hệ chuyển nhượng vốn không thể thực hiện được.Tương tự, thời hạn cho vay( thời hạn bán chịu) phụ thuộc vào sự ngắt quãng cho phép của chu kỳ kinh doanh của người bán chịu, vì thế quan hệ tín dụng chỉ thực hiện khi nó phù hợp với thời hạn yêu cầu của người mua chịu.Vì đối tượng tín dụng là hàng hoá và người mua chịu cần giá trị sử dụng của một loại hàng hoá nhất định nên quan hệ tín dụng chỉ nảy sinh khi yêu cầu này phù hợp với giá trị sử dụng của hàng hoá cần bán.
Ngoài những hạn chế chủ yếu trên, tín dụng thương mại là loại tín dụng trực tiếp và không có đảm bảo ngoài lời hứa trả nợ trên thương phiếu, nên rủi ro cũng rất dễ nảy sinh.Mặt khác do tính chuyển nhượng của thương phiếu, nên khó khăn trong chi trả của một người có thể ảnh hưởng dây chuyền đến những người khác có tham gia vào thanh toán thương phiếu bằng hình thức ký hậu.Để hạn chế rủi ro này, các nước có ban hành luật lưu thông thương phiếu, đồng thời quy định các tiêu chuẩn cụ thể cho các doanh nghiệp được phép tham gia quan hệ tín dụng thương mại, thông thường đó phải là các doanh nghiệp lớn, có uy tín.
Việt Nam chưa có luật thương phiếu, nhưng chúng ta đã ban hành Pháp lệnh thương phiếu làm cơ sở pháp lý cho việc ra đời và lưu hành thương phiếu, đồng thời đảm bảo an toàn cho các hoạt động mua bán chịu đang diễn ra hàng ngày giữa các doang nghiệp, chấm dứt tình trạng nợ nần dây dưa chiếm dụng vốn lẫn nhau.
4.TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
4.1Khái niệm :
Là hình thức tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng với một bên là các chủ thể kinh tế khác như Doanh nghiệp ,cá nhân trong đó Ngân hàng đóng vai trò vừa là người huy động vốn vừa là người cho vay.
Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm, thông qua vai trò trung gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn.Nguồn vốn của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác nhau, do đó nó có thể thoả mãn các nhu cầu vốn đa dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng.Vì nguồn vốn huy động có tính chất nhàn rỗi tạm thời nên tín dụng ngân hàng chủ yếu đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn.Sự tin tưởng đóng một vai trò quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của quan hệ tín dụng ngân hàng.Sự đổ bể của một khoản tín dụng không chỉ làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của một ngân hàng mà nó còn có thể gây phản ứng dây chuyền tới sự ổn định của toàn hệ thống vì chúng có mối quan hệ với nhau thông qua hệ thống thanh toán.Nó còn làm thiệt hại đến quyền lợi của khách hàng, gây ảnh hưởng không tốt đến sự ổn định xã hội.Vì vậy yêu cầu đảm bảo an toàn cho mỗi khoản tín dụng ngân hàng là điều bắt buộc.
Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ- vì chúng không đủ điều kiện để tham gia vào các thị trường vốn trực tiếp.Khả năng cung ứng của tín dụng ngân hàng còn góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.Tín dụng ngân hàng còn được sử dụng như công cụ để phát triển các ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu của Chính phủ.
4.2 Những hình thức tín dụng ngân hàng
a.Cho vay bằng hình thức chiết khấu thương phiếu .
Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn trong đó ngân hàng mua những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán của khách hàng với giá trị bằng giá trị thương phiếu trừ đi phần chiết khấu thương phiếu và phí hoa hồng .Đến thời hạn thanh toán, ngân hàng đòi người mắc nợ thương phiếu giá trị của thương phiếu.
Đây là một nghiệp vụ ngân hàng cổ điển,ra đời từ rất sớm và cho đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ biến.
b.Cho vay ứng trước.
Tín dụng ứng trước là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng ,trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định.Để thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản cho vay và chuyển số tiền cho vay vào tài khoản đó để khách hàng sử dụng .Ngân hàng thu lãi suất vay ngay cả trên số tiền vay khách hàng chưa sử dụng hoặc sau khi cam kết mức khách hàng phải trả một phí tổn ( 0,25%) trên số dư không sử dụng nhằm bù đắp lại các chi phí do ngân hàng bị kẹt vốn đối với khách hàng vay trong khi ngân hàng vẫn phải hoàn trả khoản lãi tiền gửi.
c.Cho vay thấu chi
Thấu chi là một hình thức ứng trước vào tài khoản ,được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời gian nhất định trên tài khoản vãng lai.Về nguyên tắc khách hàng luôn phải có số dư trên tài khoản gửi thanh toán để sẵn sàng chi trả và chỉ được chi trả trên số vốn của mình .Tuy nhiên khách hàng có thể chi vượt số chỉ có của mình và bù đắp bằng cách gửi tiền vào tài khoản thanh toán sau.
Thấu chi thuộc loại tín dụng cổ điển tuy nhiên mọi sản phẩm tín dụng ngân hàng đều xuất phát từ nhu cầu thị trường( khó khăn của doanh nghiệp ,cá nhân vẫn chính là cơ hội của ngân hàng ).Do đó giê đây nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong các sản phẩm tín dụng ngân hàng, do việc nó đáp ứng một mảng nhu cầu lớn của các doang nghiệp, cá nhân- tức là toàn bộ các loại khách hàng có nhu cầu vốn thường xuyên về nội tệ hay ngoại tệ đều có thể được ngân hàng ký kết hợp đồng thấu chi và cung ứng theo mức đã ký.
d.Tín dụng uỷ thác hay bao thanh toán
Đây là dịch vụ cho vay chủ yếu do các công ty con của ngân hàng thực hiện khi họ mua lại các giấy nợ của khách hàng để thanh toán hộ.Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ này giống như chiết khấu thương phiếu.Nó giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh chóng.Ngân hàng thu được lãi do chênh lệch giữa giá thanh toán và giá mua chứng từ.Đây là hình thức tín dụng nhiều rủi ro.
e.Tín dụng thuê mua
Cho vay thuê mua là hình thức tín dụng trung và dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và bất động sản khác.Ngân hàng sẽ dùng vốn của mình để mua tài sản theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê.Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thoanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn.Khi hết thời hạn thuê,bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng.Đây chính là nghiệp vụ cho vay, bởi vì thay cho việc vay bằng tiền để khách hàng mua tài sản, ngân hàng đã đứng ra mua và cho thuê lại.Số tiiền thuê phải bù đắp được chi phí khấu hao,chi phí tài chính (ứng với lãi của số vốn ngân hàng bỏ ra mua tài sản ),chi phí quản lý, lãi của người cho thuê ( ngân hàng ).
f.Tín dụng bằng chữ ký
Ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín (chũ ký) của mình, ngân hàng tạo điều kiện để khách hàng sử dụng vốn của người khác và đảm bảo thanh toán cho khách hàng.
Tín dụng bằng chữ ký là hình thức cho vay gián tiếp, nó bao gồm tín dụng chấp nhận và tín dụng bảo lãnh .
- Tín dùng chấp nhận: là việc ngân hàng đứng ra chấp nhận thương phiếu cho khách hàng, hoặc là xác nhận việc đảm bảo thanh toán vốn của người trả tiền thương phiếu.ở nghiệp vụ này ngân hàng đã cho muợn uy tín của mình để khách hàng vay vốn (người mua chịu được sử dụng vốn của người bán chịu hàng hóa).
- Tín dụng bảo lãnh:là việc ngân hàng đứng ra đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ của khách hàng thay cho người được bão lãnh nếu người này không thực hiện được nghĩa vụ.Điểm này được cụ thể hoá bằng văn bản của ngân hàng được gọi là thư bảo lãnh.
g.Tín dụng tiêu dùng
Đây là hình thức tín dụng được thực hiện để tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.Tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của mình mmà người vay có nhu cầu vay khác nhau.Tín dụng tiêu dùng chủ yếu tài trợ cho việc mua sắm, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp nhà ở, xe hơi, xe máy, các đồ dùng sinh hoạt đắt tiền.
5.TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
Là quan hệ tín dụng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật giữa một bên là Nhà nước và một bên là các chủ thể kinh tế khác trong xã hội như doanh nghiệp, cá nhân, các ngân hàng trong đó nhà nước là người đi vay bằng cách phát hành các trái phiếu và tín phiếu tuỳ tính chất thiếu hụt của ngân sách.Người mua các chứng khoán này là người cho Nhà nước vay bao gồm các hộ gia đình, các ngân hàng và các định chế phi ngân hàng, ngân hàng trung ương hoặc các tổ chức nước ngoài.
Chính phủ vay trong nước bằng công cụ Kho bạc, gọi là trái phiếu Chính phủ.Trái phiếu chính phủ có loại ngắn hạn (tín phiếu kho bac và kỳ phiếu kho bạc) và loại dài hạn (trái phiếu kho bạc nội tệ và trái phiếu kho bạc ngoại tệ).Phổ biến trên thị trường tiền tệ là các tín phiếu kho bạc có kỳ hạn 3,6,9,12 tháng. Các tín phiếu Kho bạc thời hạn dưới 12 tháng thường được phát hành để bù đắp khoản thiếu hụt ngân sách tạm thời khi nguồn thu chưa đến hạn.Loại tín phiếu này phải được thanh toán trong năm tài chính.Các loại trái phiếu Kho bạc thời hạn dài hơn được dùng để bù đắp bội chi ngân sách hàng năm.Công trái Nhà nước thường được phát hành theo đợt nhằm thu hót vốn thực hiện các công trình kinh tế và xã hội lớn của Nhà nước.
Tín phiếu kho bạc, đối với chính phủ, là công cụ huy động vốn nhanh, tiết kiệm do đấu thầu và thanh toán ghi sổ ở Ngân hàng nhà nước nên không mất phí in chứng chỉ.Đối với Ngân hàng, đây là công cụ điều tiết lượng cung ứng tiền tệ.Bằng cách bán ra các tín phiếu, ngân hàng sẽ một lượng tiền ra khỏi lưu thông.Để bơm thêm tiền vào lưu thông ngân hàng sẽ mua vào các tín phiếu.Đối với người mua tín phiếu, đây là công cụ đầu tư hầu như không có rủi ro và có tính thanh khoản cao.
6.TÍN DÔNG DOANH NGHIỆP
Tín dông doanh nghiệp là quan hệ tín dụng trực tiếp giữa doanh nghiệp và công chúng.Quan hệ vay mượn này được thể hiện dưới hai hình thức hoàn toàn khác nhau:
- Quan hệ tín dụng tiêu dùng :là tín dụng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.Trong đó các tổ chức thương nghiệp lớn là người cho khách hàng của mình vay bằng cách cho phép họ sử dụng một khối lượng hàng hoá tiêu dùng nhất định mà không phải trả tiền ngay trong một thời gian nhất định.Các tổ chức này có thể phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng của mình và cho họ hưởng một hạn mức tín dụng để mua hàng.Bằng cách này, các tổ chức thương nghiệp có thể đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá đồng thời buộc khách hàng phải lệ thuộc vào họ.
-Quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với công chúng với tư cách là người tiết kiệm:
Trong mối quan hệ này, các doanh nghiệp là người có nhu cầu đầu tư, huy động vốn trực tiếp bằng cách phát hành các loại trái phiếu trên thị trường vốn.Người mua trái phiếu là người cho vay.Đây là quan hệ chuyển nhượng vốn trực tiếp, đóng một vai trò quan trọng trong việc cung ứng các khoản vốn trung và dài hạn cho nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Chương 3:Thực trạng và giải pháp về tình hình tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1.THỰC TRẠNG VỀ TÍN DỤNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Trong 6 tháng đầu năm 2004, hoạt động tín dụng tăng trưởng nhanh, nguồn vốn huy động đạt mức tăng trưởng 16,6% so với cuối năm 2003 và tăng 31,1% so với cùng kỳ năm trước; dư nợ cho vay tăng:17,2% so với cuối năm 2003 và tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước.Trong đó, lãi suất cho vay ngoại tệ thấp hơn, tỷ giá tương đối ổn định (cùng với các nghiệp vụ bảo hiểm tỷ giá, đối tượng vay ngoại tệ được mở rộng) đã khích lệ khách hàng, doanh nghiệp vay ngoại tệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là dư nợ ngoại tệ tăng cao hơn dư nợ VND ( dư nợ ngoại tệ tăng:27,4% trong khi dư nợ VND tăng 12,2% so với năm 2003).
Đánh gía chung hoạt động tín dụng trong 6 tháng đầu năm có thể rót ra nhận xét chung là cả hai chỉ tiêu: huy động vốn và dư nợ cho vay tăng trưởng nhanh và cao.Tuy nhiên, theo nhận định của NHNN, vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm, đặc biệt trong quản lý nợ.Bản thân công tác tín dụng luôn đi kèm với xác suất rủi ro nhất định, nên việc cho vay nhiều chưa hẳn đã tốt, do đó đòi hỏi các ngân hàng phải có trình độ quản lý nợ tốt đảm bảo khả năng thu hồi vốn.Đây cũng là lý do mà các tổ chức tài chính quốc tế cho rẳng, tăng trưởng tín dụng của Việt Nam chỉ nên dưới 20%/năm, bởi khả năng quản lý nợ ở nước ta vẫn còn yếu.
2.MÉT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ NGÂN HÀNG.
Thứ nhất:Kiểm soát tăng trưởng tín dụng: mức tăng trưởng tín dụng có tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế nhưng đồng thời lại có ảnh hưởng tới sự gia tăng lạm phát, nên việc tăng trưởng tín dụng cần ở mức đảm bảo đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế; mặt khác tăng trưởng tín dụng phải đảm bảo đầu tư vào các dự án có hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng.Do vậy, các tổ chức tín dụng cần hạn chế việc gia tăng nhanh tài sản có ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và thực hiện nghiêm túc các tỷ lệ an toàn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nguyên tắc tín dụng an toàn và hiệu quả; việc mở rộng mạng lưới chi nhánh cần được thực hiện một cách thận trọng cùng với việc tăng vốn và quản trị điều hành tốt hoạt động của mình.Đặc biệt cán tổ chức tín dụng cần hết sức thận trọng đối với việc cho vay đầu tư bất động sản hoặc cho vay thế chấp bằng bất động sản do giá bất động sản đã quá cao và có thể biến động ngược lại.
Thứ hai: Ngân hàng Nhà nước tăng cường cơ cấu lại nợ của các ngân hàng thương mại. Giải quyết xử lý nợ giai đoạn II nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của ngân hàng thương mại.Thực hiện chỉ thị số 11/2004/CT-TTg ngày 30/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long để tăng vốn, nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng trước yêu cầu hội nhấp quốc tế.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) cần tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các khoản tín dụng.Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được vay vốn ngân hàng, chú ý đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng của ngân hàng để đầu tư và sản xuất kinh doanh; đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất.Trong đó coi hoạt động theo dõi và kiểm tra mãn vay là hoạt động thường xuyên bắt buộc.Đảm bảo mọi khoản vay được đầu tư , sử dụng đúng mục đích, là cơ sở đảm bảo trả nợ vay ngân hàng, an toàn tín dụng.
Thứ ba:Khai thác và sử dụng ngu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lttt 15.doc