Tiểu luận Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

Mục lục

 

Lời mở đầu 1

 

Phần I. Khái quát về TTQT và phương thức thanh toán TDCT 2

1. TTQT và các phương thức TTQT chủ yếu 2

1.1. Khái niệm TTQT 2

1.2. Vai trò của TTQT 2

1.3. Các phương thức TTQT chủ yếu 3

2. Phương thức thanh toán TDCT 4

2.1. Khái niệm 4

2.2. Quy trình nghiệp vụ 5

2.3. Ý nghĩa 6

 

Phần II. Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT 8

1. Khái niệm 8

2. Phân loại 8

2.1. Rủi ro kỹ thuật 8

2.1.1. Rủi ro đối với người bán 8

2.1.2. Rủi ro đối với người mua 10

2.1.3. Rủi ro đối với ngân hàng 11

2.2. Rủi ro chính trị 12

2.3. Rủi ro ngoại hối 13

2.4. Rủi ro đạo đức 14

2.5. Rủi ro khác 16

3. Nguyên nhân 17

3.1. Đối với rủi ro kỹ thuật 17

3.2. Đối với rủi ro chính trị 17

3.3. Đối với rủi ro ngoại hối 18

3.4. Đối với rủi ro đạo đức 18

 

Phần III. Một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro 19

1. Kiến nghị đối với Nhà nước 19

2. Kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh XNK 21

3. Kiến nghị đối với các Ngân hàng thương mại 23

3.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng 23

3.2. Xây dựng đội ngũ chuyên viên và đạo đức nghề nghiệp 24

3.3. Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro 25

3.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng 25

3.5. Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng 27

4. Kiến nghị cụ thể về nghiệp vụ 28

 

Kết luận 31

Tài liệu tham khảo 32

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3545 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kết quả là khi doanh nghiệp rơi vào vòng tố tụng thì ngân hàng phải chịu hết rủi ro. Trong trường hợp này, nếu ngân hàng đứng ra trả tiền thay cho các doanh nghiệp đó thì rủi ro rất cao bởi vì khả năng thu hồi tiền là rất mong manh. Nhưng theo quy định của L/C thì ngân hàng mở phải có trách nhiệm trả tiền cho người bán khi người mua mất khả năng thanh toán. Điển hình là trường hợp của VCB khi cấp L/C trả chậm cho các hợp đồng của vụ án Minh Phụng, Tamexco... Các quy định về an toàn trong ký quỹ L/C, đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố, cam kết của ngân hàng chưa được áp dụng chặt chẽ. Thậm chí đối với các L/C thế chấp bằng chính lô hàng nhập cũng chưa có sự giám sát chặt chẽ của cán bộ ngân hàng đối với hàng nhập về này nên khách hàng đã bán hàng và sử dụng tiền vào mục đích khác mà ngân hàng không phát hiện ra. Hậu quả lớn nhất chính là ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Mất mát về uy tín là mất mát lớn nhất và sâu sắc nhất ảnh hưởng tới vị thế của ngân hàng trong lòng thị trường. Nói tóm lại, tất cả những sai sót về mặt kỹ thuật dù từ phía nào cũng đều làm cho quá trình thanh toán bị gián đoạn, kéo dài, thậm chí gây thiệt hại rất lớn cho các bên. 2.2. Rủi ro chính trị Rủi ro chính trị hay rủi ro quốc gia (Country Risk) quốc gia là những rủi ro về sự thay đổi chính trị, kinh tế, chính sách của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá, qua đó có ảnh hưởng không tốt tới ngân hàng. Những biến động về chính trị như: chiến tranh, nổi loạn, đảo chính và các biến cố chính trị xã hội khác đã gây cản trở cho việc giao nhận hàng và thanh toán qua ngân hàng của các doanh nghiệp. Những biến động này thường khiến cho các bên xuất nhập khẩu và ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình, làm cho L/C có thể bị huỷ bỏ gây thiệt hại cho các bên. Bên cạnh đó, biến động về môi trường pháp lý cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các bên tham gia phương thức thanh toán L/C và nó cũng để lại những hậu quả đáng kể. Rủi ro này xảy ra khi có sự vận dụng không thống nhất các nguồn luật điều chỉnh L/C ngoài UCP600. Nó thường xuất hiện khi có sự tranh chấp hoặc khiếu kiện giữa các bên. Ví dụ trường hợp một công ty nhập khẩu đến VCB xin mở một L/C cho người hưởng lợi nước ngoài. Sau khi xem xét đơn yêu cầu mở L/C và giấy cam kết của khách hàng, căn cứ vào tình hình tài chính, phân tích đánh giá nhu cầu thị trường, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp ký quỹ 20%. Quy định mức tiền ký quỹ này là một biện pháp để ngân hàng mở tự bảo vệ mình. Khi đồng ý mở L/C cho doanh nghiệp, VCB cũng vận dụng kết hợp các thông lệ quốc tế không chỉ trong ngân hàng mà còn trong các lĩnh vực khác như vận tải, bảo hiểm... và yêu cầu vận đơn phải được theo lệnh của ngân hàng phát hành. Theo thông lệ quốc tế về vận tải, với vận đơn đó ngân hàng sẽ được quyền nhận hàng hoặc bán hàng cho khách hàng khác nếu đơn vị mở L/C không có khả năng thanh toán hoặc có nguy cơ bị phá sản. Song thực tế lại diễn ra không theo như ý muốn của các bên tham gia. Sau khi hàng đã giao và bộ chứng từ thanh toán đã đến ngân hàng mở - VCB, ngân hàng yêu cầu đơn vị nhập khẩu thanh toán để nhận chứng từ đi lấy hàng thì họ lại không có khả năng thanh toán do có nhiều hợp đồng bị thua lỗ trước đó. Sau khi không còn có hy vọng gì về việc người mua có thể thanh toán được tiền hàng, VCB đã phải cầm chứng từ hàng hoá đi nhận hàng của người nhập khẩu nhưng đã bị hải quan từ chối với lý do: “ngân hàng chỉ là người bảo lãnh chứ không phải người mua nên không được nhận hàng”. Đây là mặt hàng phải có quota nhập khẩu nên ngân hàng không có đủ điều kiện để nhận hàng hoặc bán lại cho bên thứ ba. Rõ ràng ngân hàng mở trong trường hợp này đã tìm cách tự bảo vệ mình nhưng rủi ro vẫn xảy ra ngoài tầm kiểm soát. Hay chẳng hạn như trường hợp của một doanh nghiệp cung ứng vật liệu xây dựng ký một hợp đồng xuất khẩu gỗ cho một công ty của Đài Loan. Sau khi hợp đồng được ký kết, Nhà nước lại ban hành quyết định tăng thuế, hạn chế xuất khẩu mặt hàng này. Do đó doanh nghiệp đã không cung cấp được đủ số lượng cho bên nước ngoài theo đúng thời hạn. Bên Đài Loan đã căn cứ vào đó để phạt thanh toán chậm 20 ngày, gây thiệt hại về tài chính cho doanh nghiệp. Cùng với mất mát tài chính của đơn vị xuất khẩu, uy tín của VCB với tư cách là ngân hàng thông báo cũng bị ảnh hưởng. 2.3. Rủi ro ngoại hối Rủi ro ngoại hối là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng đồng tiền nước ngoài. Do vậy nó phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là tỷ giá hối đoái và trạng thái ngoại hối về loại ngoại tệ đó của ngân hàng. Thứ nhất là vấn đề tỷ giá hối đoái: đây là một yếu tố nhạy cảm và sự biến động của nó là không thể lường trước được, nó có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của doanh nghiệp. Khi kí hợp đồng mua hàng, nhà nhập khẩu không thể lường trước được mức độ trượt giá đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh. Khi hàng nhập về, tỷ giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng giá được, nhà nhập khẩu có thể từ chối nhận hàng vì sợ bị lỗ và vì cũng không có đủ khả năng thanh toán, khi đó thì rủi ro tất yếu sẽ xảy ra đối với ngân hàng thương mại. Bản thân ngân hàng đã có những biện pháp để tự phòng ngừa những ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái một cách có hiệu quả. Tuy nhiên trong một số trường hợp, do sơ suất ngân hàng đã phải chịu một số thiệt hại do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên. Ví dụ: Trong thực tế ở nước ta, một số doanh nghiệp nhập khẩu thường không sẵn có ngoại tệ hoặc nếu có thì số lượng không đáng. Do đó khi cần ngoại tệ, họ sẽ chuyển nội tệ vào ngân hàng và yêu cầu ngân hàng bán ngoại tệ cho mình để thanh toán. Khi có yêu cầu mở L/C thanh toán ngân hàng sẽ thu tiền ký quỹ đối với nhà nhập khẩu. Do trong TTQT ngoại tệ mạnh thường được sử dụng nên ngân hàng mở sẽ phải dùng số tiền đó để mua ngoại tệ. Số tiền ký quỹ mà doanh nghiệp nộp vào ngân hàng đã được tính ra ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm đó. Nếu vì một lý do nào đó ngân hàng không thực hiện ngay việc trao đổi lấy ngoại tệ tại thời điểm đó mà lùi lại một thời gian, giả sử khi đó đồng nội tệ giảm giá và ngân hàng không lường trước được điều này, ngân hàng sẽ phải mất thêm một khoản tiền để bù vào mức giảm đó khi mua ngoại tệ. Kết quả là ngân hàng sẽ bị mất một khoản tiền do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, nếu trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt, một mặt ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng, mặt khác bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình thanh toán cho ngân hàng. Thiệt hại xảy ra có thể về mặt tài chính vì ngân hàng phải đi vay ngoại tệ của ngân hàng khác, nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng trong hoạt động thanh toán nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung. Cụ thể là trường hợp xảy ra đối với Petrolimex Hà Nội. Trong quá trình thanh toán, VCB đã cố gắng cung cấp ngoại tệ để thanh toán các L/C đến hạn. Tuy nhiên có một vài trường hợp khi đến hạn thanh toán, ngân hàng đã không thể thanh toán được như kế hoạch vì khi đó Petrolimex Hà Nội không kịp chuẩn bị tiền VND hoặc ngân hàng chưa có đủ ngoại tệ để bán. Kết quả chúng ta đã bị ngân hàng nước ngoài phạt. Petrolimex Hà Nội khi đó không những không quan tâm mà còn đổ lỗi cho ngân hàng vì không chuẩn bị đủ ngoại tệ để bán cho họ. Như vậy, Vietcombank vừa bị mang tiếng với ngân hàng nước ngoài vừa có trục trặc trong quan hệ với khách hàng. 2.4. Rủi ro đạo đức Rủi ro đạo đức là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia phương thức L/C cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại đến quyền lợi của một bên hoặc các bên còn lại. Trong phương thức thanh toán L/C, dù quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia được quy định rõ ràng. Song không phải lúc nào những nguyên tắc đó cũng được tôn trọng. Rủi ro đạo đức có thể xảy ra khi: Người xuất khẩu có nghĩa vụ phải giao hàng đúng theo hợp đồng, theo đúng L/C nhưng anh ta không giao hàng hoặc giao hàng không đúng, không đủ nhưng lại xuất trình được bộ chứng từ hoàn hảo. Cũng có thể người bán không giao hàng vì muốn tăng giá, dẫn đến làm chậm trễ việc giao hàng... Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến người mua và đồng thời cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến ngân hàng. Nếu người mua gặp rủi ro thì khả năng anh ta thanh toán lại tiền cho ngân hàng là rất khó. Do đó ngân hàng có thể sẽ bị chậm trễ trong việc thu hồi tiền từ người mua, thậm chí nghiêm trọng hơn là sẽ không được người mua thanh toán. Người nhập khẩu có nghĩa vụ trả tiền cho ngân hàng mở L/C nhưng anh ta có thể cố tình trì hoãn hoặc từ chối thanh toán, từ chối nhận hàng bằng những thủ đoạn nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ hoặc phát hành thư tín dụng giả mạo bởi một ngân hàng “ma”. Người bán giao hàng cho nhà chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo nhận hàng, lấy tiền cước rồi biến mất, hoặc có tìm thấy tàu nhưng hàng thì không còn. Trong trường hợp này, nếu nhà xuất khẩu vẫn xuất trình được bộ chứng từ hợp lệ thì ngân hàng phát hành vẫn buộc phải thanh toán, nhưng thực tế thì nhà nhập khẩu lại không nhận được hàng nên họ sẽ từ chối thanh toán, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng thanh toán (ngân hàng mở L/C) là điều chắc chắn. Trong nhiều trường hợp các ngân hàng phát hành có thể cũng vi phạm những cam kết của mình như trì hoãn, hoặc từ chối thanh toán, đứng về phía người mua để gây khó khăn cho quá trình thanh toán. Điều này sẽ gây rủi ro đối với người bán, ngân hàng xác nhận và ngân hàng chiết khấu. Ngược lại, nếu ngân hàng chiết khấu không trung thực, bộ chứng từ có sai sót mà vẫn đòi tiền bằng điện thì sẽ gây rủi ro cho nhà nhập khẩu và ngân hàng phát hành. Ví dụ: Có khách hàng yêu cầu VCB phát hành bảo lãnh nhận hàng và chấp nhận thanh toán kể cả khi chứng từ có sai sót, nhưng khi có sai sót lại yêu cầu ngân hàng không thanh toán. Có trường hợp khách hàng không chịu thanh toán phần còn lại của lô hàng để răn đe nhà cung cấp mặc dù công trình đã được nghiệm thu, bất chấp thông lệ quốc tế. Với những khách hàng như thế Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn để giữ uy tín của mình. Một số khách hàng nhập khẩu vì lợi ích riêng của doanh nghiệp đã bội ước với ngân hàng, trây ỳ trong thanh toán. Hàng đã bán hết nhưng không trả tiền cho ngân hàng mà mang tiền bán hàng sử dụng vào mục đích khác. Đến khi làm ăn thua lỗ lại không thực hiện được cam kết với ngân hàng. Đó là trường hợp của công ty trách nhiệm hữu hạn Đức Phương, công ty Hưng Thịnh Vũng Tàu... 2.5. Các rủi ro khác. Ngoài những rủi ro kể trên, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ cũng như các hoạt động khác của ngân hàng còn có thể gặp một số loại rủi ro khác như bất khả kháng (như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh..) và các rủi ro do 1 trong các bên phá sản mất khả năng thanh toán làm cho các bên tham gia gặp phải thiệt hại với hậu quả khôn lường. Rủi ro xảy ra đối với người nhập khẩu còn có thể do nguyên nhân khi ngân hàng phát hành đứng trước tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, mức độ thiệt hại của người mua phụ thuộc vào số tiền ký quỹ. Rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản: Đây là loại rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở thư tín dụng, bởi vì ngân hàng buộc phải thanh toán cho người bán trong khi không thể thu hồi được vốn lại từ phía người mua. Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu hoặc ngân hàng xác nhận hoặc bên nhập khẩu khi ngân hàng phát hành bị phá sản: rủi ro này ít khi xảy ra nhưng không phải là không có, sự kiện sụp đổ của ngân hàng Bearing của Anh tháng 2 năm 1995 là minh chứng cho sự rủi ro loại này. Trong điều 36 UCP 600 quy định: “ Ngân hàng không có nghĩa vụ hoặc trách nhiệm đối với các hậu quả phát sinh ra tự sự gián đoạn hoạt động kinh doanh của mình do thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy… hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Khi bắt đầu kinh doanh trở lại, ngân hàng không phải thanh toán hoặc thương lượng thanh toán theo tín dụng mà tín dụng này đã hết hạn trong lúc kinh doanh của ngân hàng bị gián đoạn”. Rõ ràng khi có bất khả kháng xảy ra, nếu người Nhập khẩu hoặc ngân hàng chiếu khấu chưa kịp được chấp nhận thanh toán thì chính họ sẽ là những người bị thiệt hại. 3.Nguyên nhân 3.1. Đối với rủi ro kỹ thuật Nguyên nhân của rủi ro kỹ thuật chủ yếu là do trình độ nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán xuất nhập khẩu của các bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu của L/C. Điều này dẫn đến những sai sót trong quá trình lập chứng từ và thanh toán. Một nguyên nhân không thể không nhắc đến là từ phía ngân hàng mở L/C. Việc mở L/C quy định quá nhiều các điều kiện, khoản mục sẽ gây khó khăn cho người bán. Để khắc phục nguyên nhân này, với người bán, phải nâng cao trình độ nghiệp vụ, thận trọng trong việc giao hàng, lập chứng từ. Với các ngân hàng phải thận trọng trong các nghiệp vụ của mình. Đặc biệt là các ngân hàng mở L/C, chỉ nên đưa những quy định quan trọng liên quan đến chất lượng, số lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, ngày giao hàng…tránh việc đòi hỏi quá nhiều chứng từ và nhiều nội dung trong chứng từ. 3.2. Đối với rủi ro chính trị Nguyên nhân sâu xa của loại rủi ro này là môi trường pháp lý và luật pháp của các nước khác nhau. Nếu có sự khác biệt, thậm chí đối nghịch giữa UCP600 và luật pháp quốc gia thì luật quốc gia sẽ vượt lên trên tất cả và phải được tuân thủ. Do đó trong nhiều trường hợp, quyết định của toà án địa phương mới là quyết định cuối cùng. Điều đáng nói ở đây là luật pháp ở một số nước cho phép toà án của họ áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo sự an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu, bất kể quy định đó trái ngược với UCP600. Chính vì vậy rủi ro về vấn đề pháp lý đối với thanh toán tín dụng chứng từ thường rất khó lường. Ngoài ra cũng cần quan tâm tới tình hình kinh tế của một quốc gia. Đó là những vấn đề như: Nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối và cán cân thanh toán của một quốc gia, sự cấm vận kinh tế, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách thương mại và các quy định về xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia,…Nếu nợ nước ngoài của quốc gia quá lớn thì một số biện pháp như tăng thuế, phá giá đồng nội tệ sẽ được áp dụng và như vậy nó sẽ có ảnh hưởng đến khả năng chi trả của người mua; người mua có thể sẽ không đủ khả năng chi trả và ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro do không đòi được tiền. Các biến động kinh tế - chính trị - xã hội dù trực tiếp hay gián tiếp, tức thì hay lâu dài, đều gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngân hàng và khách hàng. Và vì vậy, rủi ro quốc gia luôn là mối đe doạ tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng, trong đó có hoạt động thanh toán L/C. 3.3. Đối với rủi ro ngoại hối Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải đối mặt với rủi ro ngoại hối trong trường hợp tỷ giá hối đoái biến động hay trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt. Những tình huống này nếu xảy ra không chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng trong hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. 3.4. Đối với rủi ro đạo đức Nguyên nhân sâu xa của vấn đề rủi ro đạo đức đó là vấn đề thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác. Đó là việc các bên tham gia không có đầy đủ những thông tin cần thiết về khả năng tài chính, về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của đối tác, hoặc được cung cấp các thông tin không chính xác...Vì vậy mà đưa ra những phán đoán và quyết định sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán. Ngoài ra còn do việc thanh toán L/C chỉ dựa trên bề mặt của chứng từ, không căn cứ vào thực trạng của hàng hoá, nên đã tạo khe hở cho một số cá nhân lừa đảo. Để hạn chế rủi ro đạo đức, vấn đề cốt lõi là phải khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng. Đứng ở góc độ ngân hàng phải tiến hành điều tra thu thập các thông tin chính xác về khách hàng của mình cũng như thông tin về các ngân hàng có liên quan như tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng và mối quan hệ của họ với các ngân hàng khác...từ đó mới có thể có được những khách hàng tốt nhằm hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Phần III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ 1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được khẳng định. Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại một cơ hội lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với khả năng tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng. Xuất phát từ thực tế đó, thanh toán xuất nhập khẩu nói chung, tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách thích hợp, phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng phát triển, đồng thời phòng tránh được những rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu và ngân hàng. Thứ nhất, cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của toàn Hệ thống NHTM Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài bộ tập quán quốc tế về tín dụng chứng từ do ICC phát hành và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng từ của ngân hàng. Khi có tranh chấp thương mại quốc tế xảy ra, Trọng tài quốc tế có thể ra phán quyết đối với quan hệ hai bên mua bán mà không đề cập đến quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng. Đối với các ngân hàng Việt Nam khi có phát sinh tranh chấp thì chỉ áp dụng bộ tập quán là chưa đủ. Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ: nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng trung gian. Trước hết nên đề cập đến một số vấn đề sau: v Quyền được miễn thanh toán của ngân hàng mở khi quan hệ giao nhận bị trọng tài tuyên án huỷ bỏ. v Quyền được nhận hàng của ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng bị mất khả năng thanh toán. v Quyền được bảo lưu số tiền chiết khấu của ngân hàng trong quan hệ mua bán đứt đoạn. Cần phải có quy chế chiết khấu hối phiếu lập theo thư tín dụng cụ thể hoá luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng chiết khấu và doanh nghiệp xuất khẩu. v Cần tạo hành lang pháp lý cho giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ tín dụng chứng từ. Cho đến nay, hầu hết các khách hàng đến ngân hàng yêu cầu mở L/C đều không có văn bản pháp lý có tính chất hợp đồng được thoả thuận bằng văn bản. Ngay như ở Ngân hàng Ngoại thương chỉ có các loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ... Các chứng từ này chỉ đơn giản là các giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính pháp lý và ràng buộc giữa hai bên nên gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp. Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần tăng cường hiệu lực các văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu. Cần có quy chế bắt buộc đối với các doanh nghiệp phải có đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, phương hướng phát triển kinh doanh... thì mới cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp (trở thành các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ). Thực tế cho thấy, thực lực tài chính của các doanh nghiệp nước ta hiện nay vẫn còn yếu, hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Nếu kinh doanh thua lỗ sẽ trực tiếp có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, uy tín thanh toán đối với ngân hàng. Theo thống kê gần đây, cả nước hiện có khoảng 34.000 doanh nghiệp với mức vốn bình quân của mỗi doanh nghiệp khoảng 2,7 tỷ đồng. Riêng khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn bình quân càng thấp, khoảng 165 triệu đồng. Do vậy, trước mắt Chính phủ cần rà soát lại các đơn vị, tổ chức kinh tế không đủ điều kiện tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp thì chuyển sang uỷ thác xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, các thể chế, thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tạo nên sự cân bằng giữa khuyến khích và kiểm soát xuất nhập khẩu. Hiện nay một số chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước đang tạo lợi thế cho doanh nghiệp này nhưng lại bất lợi đối với doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu gây nên tồn đọng một số loại vật tư gây lãng phí và kém hiệu quả. Tình trạng nhập khẩu tràn lan làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bị đình trệ, hàng hoá trong nước sản xuất ra không tiêu thụ được. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Thứ ba, cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC). Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả cao, cần tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho trung tâm. Đồng thời cũng nên có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng... 2. Một số kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu: Rủi ro trong thanh toán quốc tế một phần là do những nguyên nhân chủ quan từ phía các đơn vị kinh doanh XNK. Chính những yếu kém về nghiệp vụ đã khiến họ là người phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất. Vì vậy, những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa rủi ro và đẩy mạnh hoạt động thanh toán XNK không thể không xuất phát từ phía 2 bên xuất khẩu và nhập khẩu. Hiện nay có rất nhiều các đơn vị tham gia hoạt động XNK nhưng có không ít các giám đốc của các đơn vị này lại chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ do vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng với bạn hàng phải qua phiên dịch. Bên cạnh đó trình độ của cán bộ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thương mại quốc tế. Như vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong các đơn vị kinh doanh XNK hiện nay mang tính cấp thiết. Cụ thể phải chú trọng những vấn đề sau: Các đơn vị khi tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán bộ này phải qua đào tạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật pháp trong thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế, có năng lực trong công tác và đặc biệt phải có phẩm chất trung thực trong kinh doanh. Kiên quyết bài trừ tư tưởng làm ăn kiểu chụp giựt, lừa đảo. Trong kinh doanh, trung thực là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo duy trì quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng và do đó nó cũng chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong quan hệ thanh toán với Ngân hàng, các doanh nghiệp cần giữ vững chữ tín, thực hiện cam kết với Ngân hàng. Phải luôn giữ quan hệ chặt chẽ với Ngân hàng, thực hiện đúng các chỉ dẫn của về các điều khoản của L/C. Khi có tranh chấp, doanh nghiệp cần thông báo ngay cho Ngân hàng và phối hợp với Ngân hàng để tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục chứ không nên quy trách nhiệm cho ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, khi lập bộ chứng từ thanh toán cần phải chú ý đến những đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai sót và xuất trình bộ chứng từ theo đúng thoả thuận. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, khi chấp nhận bộ chứng từ để thanh toán tiền hàng cần kiểm tra hàng và/hoặc bộ chứng từ cẩn thận để tránh xảy ra tranh chấp về hàng hoá sau này đặc biệt là trong trường hợp do nhu cầu cấp thiết về hàng hoá nên đã chấp nhận mọi điều kiện của chứng từ để ngân hàng bảo lãnh cho nhận hàng trước khi chứng từ tới. Các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế phải lường trước được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện ở nước ngoài. Trong trường hợp bị khởi kiện ở nước ngoài, do khả năng về tài chính và nghiệp vụ có hạn nên phía Việt Nam ít thành công trong các phiên toà quốc tế. Do vậy, khi được quyền chọn toà xử án khi có tranh chấp nên chọn Trọng tài xét xử trong nước (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam) để tránh những rủi ro trên. Như vậy, chỉ khi các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế thực hiện đúng các điều kiện trên thì công tác thanh toán qua Ngân hàng mới nhanh chóng thuận tiện và hoạt động XNK của đơn vị mới có hiệu quả. 3. Một số kiến nghị đối với các ngân hàng TM: 3.1. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng Biện phá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan.doc
  • doc1 - trang bia.doc
  • doc2 - muc luc.doc
Tài liệu liên quan