Tiểu luận Các nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cơ hội, thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO

Với mặt hàng nông sản, với những yếu tố mới về mở cửa thị trường và giảm thuế quan, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn, khối lượng hàng nông sản sẽ tăng lên rất nhiều do các hạn chế về số lượng sẽ được chuyển sang thuế. Đặc biệt với sản phẩm gạo, Việt Nam sẽ có lợi nhiều hơn khi thị trường gạo thế giới mở cửa, các nước trước đây rất ít nhập khẩu gạo của ta như Hàn Quốc cũng bắt buộc phải mở cửa thị trường của họ .

Đối với mặt hàng dệt may, hiệp định về hàng dệt may ATC đã thay thế hiệp định đa sợi MFA đã tạo rất nhiều điều kiện tốt cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam, gia tăng cơ hội xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp trong nước. Khi tham gia WTO, sau năm 2001 Việt Nam sẽ không bị các nước áp đặt hạn ngạch nữa, dó đó các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với thị trường thế giới mà hoàn toàn không bị hạn chế định lượng.

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7058 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cơ hội, thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ quan giải quyết mâu thuẫn mậu dịch của WTO và yêu cầu nước đó ngừng các hoạt động kinh tế xâm hại đến lợi ích của mình. Bất cứ thành viên nào cũng phải chấp nhận khi bị các thành viên khác khởi tố lên WTO vì đây là một trong những nghĩa vụ của mọi thành viên, không nước nào có thể tránh khỏi. Chức năng thứ tư của WTO: Là phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền kinh tế thị trường hoạt động và nâng cao được hiệu quả, WTO xúc tiến việc giảm nhẹ qui chế. Phần lớn các nước trước kia theo cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung hiện nay đều đang chuyển sang nền kinh tế thị trường đã và đang làm thủ tục để xin gia nhập WTO. Qua các cuộc đàm phán cần thiết để gia nhập WTO, các nước này có thể tìm hiểu được về hệ thống kinh tế thị trường và đồng thời xắp xếp lại những chế độ và qui tắc để có thể quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường. II. Các nguyên tắc cơ bản của WTO. Các hiệp định của WTO mang tính chất lâu dài và phức tạp đó là vì những văn bản pháp lý bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn. Các hiệp định này giải quyết các vấn đề liên quan đến: nông nghiệp, hàng dệt may, ngân hàng, bưu chính viễn thông, mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn công nghiệp, các qui định về vệ sinh dịch tễ, sở hữu trí tuệ và nhiều lĩnh vực khác nữa. Tuy nhiên có một số các nguyên tắc hết sức cơ bản và đơn giản xuyên suốt tất cả các hiệp định. Các nguyên tắc đó chính là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên. Sau đây là chi tiết các nguyên tắc đó. Nguyên tắc thứ nhất: Là thương mại không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này được áp dụng bằng hai loại đãi ngộ song song, đó là đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): đối xử mọi người bình đẳng như nhau. Theo qui định của các hiệp định WTO, nguyên tắc này được áp dụng như sau: Mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với nhau như là các bạn hàng được ưu đãi nhất. Nếu như một nước cho một nước khác được hưởng lợi nhiều hơn thì đối xử "tốt nhất" đó phải được giành cho tất cả các nước thành viên WTO khác để các nước khác vẫn tiếp tục có được đối xử tối huệ quốc. Nguyên tắc MFN đảm bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử trên 140 thành viên khác tương tự nhau. Nguyên tắc này rất quan trọng vì vậy nó được ghi nhận tại điều đầu tiên của hiệp định chung về quan thuế và thương mại GATT về thương mại hàng hoá. Nguyên tắc MFN cũng được đề cao trong hiệp định chung về dịch vụ GATS, hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại TRIMs tuy có khác nhau một ít ở từng hiệp định. Đối xử quốc gia (NT): đối xử người nước ngoài và người trong nước như nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được đối xử như nhau, ít nhất là sau khi hàng hoá nhập khẩu đã đi vào đến thì trường nội địa. Theo nguyên tắc này, khi áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với hàng nhập khẩu thì phải cung cấp các điều kiện tương tự như đối với sản phẩm trong nước. Vì thế các thành viên của WTO không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản xuất trong nước và không được phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho dịch vụ nhãn hiệu thương mại, bản quyền và quyền phát minh sáng chế trong nước và của nước ngoài. Đối xử quốc gia chỉ áp dụng được khi hàng háo dịch vụ và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã vào đến thị trường. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá không vi phạm nguyên tắc này mặc dù hàng nội địa không chịu thuế tương tự. Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do thông qua đàm phán.WTO đảm bảo thương mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp hàng rào thuế quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng rào thương mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp khác như cấm nhập khẩu, quota có tác dụng hạn chế nhập khẩu có chọn lọc, đôi khi vấn đề khác như tệ quan liêu, chính sách ngoại hối cũng được đưa ra đàm phán. Kể từ khi GATT, sau đó là WTO được thành lập đã tiến hành 8 vòng đàm phán để giảm thuế quan, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc tự do thương mại này, WTO đảm nhận chức năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại. Nguyên tắc thứ ba: WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và không bị bóp méo. Các quy định về phân biệt đối xử được xây dựng nhằm đảm bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các đều khoản về chống phá giá, trợ cấp cũng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp định của WTO như Nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đều nhằm mục đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các nước. Nguyên tắc thứ tư: Tính tiên liệu được thông qua ràng buộc thuế. Các cam kết không tăng thuế cũng quan trọng như việc cắt giảm thuế vì cam kết như vậy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dự đoán tốt hơn các cơ hội trong tương lai. Trong WTO, khi các nước thoả thuận mở cửa thị trường cho các hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, họ phải tiến hành ràng buộc các cam kết thuế. Đối với thương mại hàng hoá, các ràng buộc này được thể hiện dưới hình thức thuế trần. Một nước có thể thay đổi mức thuế ràng buộc, tuy nhiên điều này chỉ có thể thực hiên được sau khi nước đó đã đàm phán với các nước bạn hàng và có nghĩa là phải bồi thường cho khối lượng thương mại đã bị mất. Qua vòng đàm phán Uruguay, một khối lượng thương mại lớn được hưởng cam kết về ràng buộc thuế. Tính riêng trong lĩnh vực hàng nông sản 100% sản phẩm đã được ràng buộc thuế. Kết quả là WTO đã tạo được sự đảm bảo cao hơn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Nguyên tắc thứ năm: Các thoả thuận thương mại khu vực. WTO thừa nhận các thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Các liên kết như vậy là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ quốc theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm các thoả thuận này tạo thuận lợi cho thương mại các nước liên quan song không làm tăng hàng rào cản trở thương mại với các nước ngoài liên kết. Nguyên tắc thứ sáu: Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. WTO là một tổ chức quốc tế với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, vì thế một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa biên. Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và các ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến việc trợ giúp kỹ thuật cho các nước này. III. Tiến trình gia nhập WTO ở Việt Nam, những cơ hội và thách thức 1.Sự cần thiết của việc gia nhập WTO. Trong hai thập kỉ gần đây, quá trình toàn cầu hoá là một quá trình được diễn ra với một tốc độ nhanh chóng. Toàn cầu hoá là quá trình hội nhập của các nền kinh tế, nó không chỉ là sự gia tăng thương mại giữa các nước mà còn tạo ra sự gia tăng rất mạnh mẽ của các dòng tài chính liên biên giới. Những dòng di chuyển vốn và đầu tư đã kéo theo một sự thâm nhập lẫn nhau sâu sắc hơn nữa giữa các doanh nghiệp. Mức độ liên kết thị trường thế giới ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng của sản xuất. Thị trường quốc tế được mở rộng, các quốc gia nhanh chóng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xích lại gần nhau hơn, tự do và bình đẳng hơn. Kỷ nguyên toàn cầu hoá đã mở ra được nhiều cơ hội cho mọi quốc gia cũng như cho hàng triệu người trên toàn thế giới, đặc biệt là với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Mậu dịch thế giới gia tăng, phân công lao động quốc tế cũng như chuyển giao công nghệ và các dòng vốn đầu tư của nước ngoài đã kích thích cho quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung cũng như của mỗi quốc gia nói riêng. Cuộc sống xã hội con người đã bước sang một trang mới, ở đó con người tự do hơn, có quyền tự chủ hơn và có thể phát huy được sức mạnh của mình ở mọi nơi trên thế giới. Tất cả những tiềm năng to lớn đó giúp cho mỗi quốc gia có thể tiếp thu được các công nghệ, kĩ thuật cao cũng như học hỏi được nhiều kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Điều này rất có lợi cho sự phát triển kinh tế của tất cả các nước, nhất là các nước có nền kinh tế đang phát triển. Chính vì vậy, có thể nói toàn cầu hoá là quá trình rất quan trọng và cần thiết nhất đối với các nước. Xu hướng toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu. Trên thế giới, các nước đã và đang cố gắng để hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá này. Hiện nay, tổ chức thương mại thế giới WTO cùng với mọi hoạt động của nó đă thể hiện được rõ nét nhất quá trình toàn cầu hoá. Tính đến hết tháng 1/2000, WTO đã có đến 141 nước thành viên và hơn 20 nước đệ đơn xin gia nhập. Chính vì vậy, gia nhập WTO là điều rất cần thiết với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển trên con đường xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thay đổi tình trạng bất bình đẳng trên thế giới, thu hẹp được khoảng cách với các nước phát triển. Gia nhập WTO chính là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để được hội nhập với quá trình toàn cầu hoá. 2.Những cơ hội và thách thức trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. 2.1 Những cơ hội. Tham gia WTO là một bước ngoặt quan trọng dẫn đến sự thành công của chương trình cải cách nền kinh tế đang chuyển đổi và các nền kinh tế chậm phát triển vì bên cạnh việc thúc đẩy ngoại thương phát triển, nó còn kích thích việc thiết lập được cơ chế thị trường ngay trong khu vực nội địa. Thứ nhất, Việt Nam khi là thành viên của WTO sẽ được hưởng mọi ưu đãi như các thành viên khác, đặc biệt là ưu đãi cho các nước đang phát triển, đó là quyền được hưởng các chế độ không phân biệt đối xử như qui chế đãi ngộ quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc đối với hàng xuất khẩu của mình sang thị trường các nước thành viên. GATT sau đó đến WTO đều giữ vững nguyên tắc “có đi có lại tương đối” trong quan hệ giữa các nước đang phát triển vá các nước phát triển thay vì áp dụng nguyên tắc “có đi có lại thông thường”. Vì vậy trong quan hệ kinh tế giữa các nước, Việt Nam cũng được áp dụng nguyên tắc “có đi có lại tương đối”. Theo nguyên tắc này, Việt Nam có thể được chịu một mức độ bồi thuờng ít khi vi phạm các qui tắc của WTO hay khi các nước phát triển giảm mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam thì nước ta cũng không bị ép phải giảm tương tự mức thuế của mình để bồi hoàn cho các nước phát triển. Thứ hai, Việt Nam được hưởng nhiều thuận lợi trong thương mại quốc tế: Trước hết, Việt Nam có thể hội nhập sâu rộng hơn vào thị trường các nước trên thế giới. Khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan được tháo bỏ, Việt Nam có nhiều cơ hội mở rộng thị trường buôn bán, hàng hoá và dịch vụ của ta sẽ có chỗ đứng tốt hơn trên thị trường quốc tế: Với mặt hàng nông sản, với những yếu tố mới về mở cửa thị trường và giảm thuế quan, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn, khối lượng hàng nông sản sẽ tăng lên rất nhiều do các hạn chế về số lượng sẽ được chuyển sang thuế. Đặc biệt với sản phẩm gạo, Việt Nam sẽ có lợi nhiều hơn khi thị trường gạo thế giới mở cửa, các nước trước đây rất ít nhập khẩu gạo của ta như Hàn Quốc cũng bắt buộc phải mở cửa thị trường của họ . Đối với mặt hàng dệt may, hiệp định về hàng dệt may ATC đã thay thế hiệp định đa sợi MFA đã tạo rất nhiều điều kiện tốt cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam, gia tăng cơ hội xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp trong nước. Khi tham gia WTO, sau năm 2001 Việt Nam sẽ không bị các nước áp đặt hạn ngạch nữa, dó đó các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với thị trường thế giới mà hoàn toàn không bị hạn chế định lượng. Việc giảm thuế quan và tiến đến múc thuế bằng không với mọi hàng hoá sẽ thuận lợi cho việc nhập khẩu của Việt Nam nhất là đối với các loại hàng hoá mà sản xuất trong nước chưa đạt hiệu quả cao như: hàng tân dược, thiết bị y tế, hoá chất, sắt thép.. Thứ ba, những qui định và nguyên tắc của WTO giúp cho Việt Nam có thể tự bảo vệ và đòi được sự công bằng trong buôn bán quốc tế. Việt Nam có quyền thương lượng với các đối tác và có quyền khiếu nại họ khi thương lượng không có kết quả. Cơ chế giải quyết của WTO thật sự đảm bảo cho Việt Nam có vị trí ngang hàng với mọi quốc gia thành viên khác trong việc giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra. Thứ tư, việc gia nhập WTO làm tăng đọ tin cậy và khẳng định được tính nhất quán trong đường lối phát triển của Đảng và nhà nước Việt Nam, quyết tâm chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mở cửa theo định hướng XHCN. Đây là nhân tố hết sức quan trọng làm gia tăng lòng tin của các doanh nhân( đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) vào sự ổn định về chính trị và xã hội ở Việt Nam. Tất cả sẽ tạo nên một trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Việt Nam có thể khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Thứ năm, gia nhập vào WTO Việt Nam có thể tiếp nhận dễ dàng khoa học công nghệ cao của các nước phát triển cũng như nâng cao được khả năng thu hút được luồng vốn của nước ngoài trong công cuộc xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Cuối cùng, những lợi ích từ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, quan hệ hợp tác với các nước thành viên WTO. Quan hệ của Việt Nam với các nước thành viên được mở rộng cả về kinh tế đến chính trị và lĩnh vực văn hoá. Việt Nam có điều kiện để học hỏi được kinh nghiệm và rút ra được nhiều bài học từ các nước đi trước. 2.2.Những thách thức Bên cạnh những cơ hội của tiến trình gia nhập WTO, Việt Nam cung phải đối mặt với một số thách thức sau: Thứ nhất, Việt Nam là đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Ta chưa thể thích ứng nhanh được với tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu vì nền kinh tế của ta chưa ổn định, các chính sách của Nhà nước chưa thực sự hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường rất non trẻ. Bên cạnh đó các vấn đề bất bình đẳng giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thể giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn nhận được rất nhiều ưu đãi từ phía Chính phủ. Hàng năm, nhà nước ta phải chi ra một khoản ngân sách rất lớn để bù lỗ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả của khu vực này. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân chưa được nhà nước tạo điều kiện để phát triển, sự phận biệt còn tồn tại rất lớn giữa hai khu vực này. Doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam do chưa thể phát triển lớn mạnh được, ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh so với các công ty nước ngoài khi Việt Nam hội nhập nền kinh tế thế giới. Thứ hai, nền sản xuất của ta còn non yếu, các thành phần kinh tế hoạt động trong một cơ chế thị trường chưa dày dạn kinh nghiệm, hàng hoá dịch vụ của ta có chất lượng chưa cao, mẫu mã chưa đẹp, sức cạnh tranh còn thấp so với hàng ngoại nhập. Chúng ta mở cửa thị trường là phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu. Điều này là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình giữ vững được thị phần của mình không chỉ tại các thị trường nước ngoài mà ngay cả đối với thị trường nội địa. Thứ ba, nguồn lực phát triển kinh tế của ta khá dồi dào nhưng sử dụng đạt hiệu quả chưa cao. Viêt Nam có rừng vàng biển bạc gia trị rất to lớn nhưng do tình trạng khai thác bừa bãi, cộng với thiếu vốn và công nghệ phù hợp nên giá trị thu được còn hạn chế.Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của ta cũng chưa đáp ứng với nhu cầu của tình hình hiện nay.Vì nguồn lao động nhiều, lao động có trình độ đại hoc giai đoạn hiện nay tăng lên nhiều so với giai đoạn trước nhưng số lượng lao động trình độ thấp tay nghề chưa cao vẫn nhiều, tác phong công nghiệp yếu..., ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ta. Thứ tư, Việt Nam sẽ vấp phải nhiều khó khăn khi thực hiện những nguyên tắc, những hiệp định của WTO: Thuế quan: Việt Nam buộc phải cắt giảm thuế nhập khẩu và hàng rào phi thuế theo các kết quả đàm phán gia nhập tuỳ theo từng lĩnh vực đối với hàng ngoại nhập. Khó khăn khi thưc hiện các quy tắc về vệ sinh dịch tễ, bao bì, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư cho thương mại... Các biện pháp chống phá giá, thuế đối kháng và tự vệ: Việt Nam chưa có luật liên quan đến vấn đề này, vì vậy ta phải đưa ra các quy định về vấn đề này để tránh mối lo ngại của các nước thành viên WTO. Thứ năm, các cơ chế chính sách quản lý kinh tế của ta còn yêu kém, thiếu sự ổn định, thiếu sự tin cậy. Các thủ tục cấp giấy phép rườm rà, không cần thiết và thiếu tính rõ ràng. Cuối cùng, trình độ và kinh nghiệm đàm phán của ta còn yếu. Đàm phán là công việc rất khó khăn, đòi hỏi thời gian dài, sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, đồng thời những ngưòi tham gia đàm phá phải có trình độ năng lực cao. Vì vậy, tăng cường kiến thức cho các cán bộ nước ta về chiến thuật, kỹ thuật đàm phán là rất cần thiết. 3 Các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần khẩn trương xây dựng mọi hệ thống pháp luật đầy đủ, chính xác, có khả năng đảm bảo cho mọi hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các nước thành viên WTO khác được thực hiện bình thường. Thứ hai, Việt Nam cần xây dựng hệ thống thuế quan thích ứng cho tất cả lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp...cũng như mọi ngành dịch vụ. Việt Nam phải sớm cắt giảm và loại bỏ các rào cản phi thuế quan theo đúng các Hiệp định của WTO, nhằm mở rộng thị trường cho các nước thành viên là bạn hàng. Như vậy Việt Nam mới thể hiện được chính sách tự do hóa mậu dịch, tranh thủ được sự đồng tình của các quốc gia trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu và đánh giá được cụ thể những thiệt hại đối với nền kinh tế nước nhà do thực hiện tất cả các biện pháp trên, như cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan...để từ đó có những hành động, biện pháp khắc phục giảm thiểu những thua thiệt có thể có. Thứ ba, trong đàm phán các hiệp định thương mại, Việt Nam cần quan tâm các điều kiện đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT), các điều kiện đòi hỏi phải tạo được những điều kiện kinh doanh bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp trong và nước ngoài .Vì vậy chính phủ cần phải thay đổi chính sách đối với các doanh nghiệp trong nước, tạo điều kiện cho tất cả mọi doanh nghiệp được bình đẳng trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ...Đối với doanh nghiệp nhà nước, điều kiên trên đòi hỏi phải loại bỏ các ưu đãi mà chính phủ đang chỉ dành cho khu vực này, như cấp vốn, cấp quota, các thủ tục pháp lí...Chính phủ phải đối xử bình đẳng với tất cả mọi thành phần kinh tế trong nước, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân. Việt nam phải sớm tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, vì các doanh nghiệp này là lực lượng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, nhờ đó các doanh nghiệp tư nhân mới có đủ điều kiện để đối mặt với sự canh tranh gay gắt của qúa trình tư do thương mại thế giới. Đối với doanh nghiệp nước ngoài, chúng ta phải loại bỏ tất cả mọi phân biệt đối xử với họ, nhất là chế độ hai giá hay là chế độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ tư, lựa chọn các chiến lược ngoại thương như thế nào để thúc đẩy mậu dịch, đồng thời chú trọng thích đáng, kích thích sản xuất trong nước phát triển. Đầu tư phát triển sản xuất các lĩnh vực, các ngành hàng mà nà chúng ta có tiềm năng. Chiến lược phát triển công nông nghiệp định hướng xuất khẩu, nhằm đưa Việt Nam tạo được động lực thúc đẩy công nông nghiệp, cũng như nền kinh tế Việt Nam phát triển lớn mạnh thông qua canh tranh với các nước khác trên thế giới. Chúng ta cần tận dụng tốt được các yếu tố đầu vào như vốn, đầu tư, công nghệ kĩ thuật hiện đại để thực hiện tốt chính sách này. Đồng thời phải kiểm soát được mức độ canh tranh thị trường nội địa để có thể tránh được tình trạng cạnh tranh không cân sức của các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp nước ngoài. Để nhằm mục tiêu thác đẩy mậu dịch theo hướng xuất khẩu cần phải cơ cấu lại sản xuất, không ngừng đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Chú trọng đến 3 vấn đề quan trọng có ý nghĩa then chốt trong thương mại quốc tế là: chất lượng, giá cả và điều kiện buôn bán. Mặc dù nó đòi hỏi cả một quá trình lâu dài và nhiều nguồn lực, nhưng cần phải tiến hành tốt, khẩn trương, rút ngắn được như có thể thì hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam mới có chổ đứng trên thị trường quốc tế. Những mặt hàng Việt Nam ta nên chú trọng : - Hàng nông sản: Quy hoạch vùng sản xuất cây con có thế mạnh về khí hậu, thổ nhưỡng , có truyền thống về tập quán canh tác nuôi trồng, kết hợp với áp dụng kỹ thuật, thâm canh, tăng năng suất để tạo ra sản lượng lớn và chất lượng thích hợp với thị trường để đưa đi xuất khẩu. Trước mắt nên quan tâm tới: gạo, chè, cà phê, đậu phọng, cao su, mía đường, rau quả vụ đông, tôm cá, gia cầm, bò, lợn, tơ tằm... Đầu tư để đẩy mạnh việc chế biên, nâng cao giá trị các mặt hàng trên, nhưng phải đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, và các yêu cầu thương mại mà các hiệp định ký tại Uruguay quy định. Những việc làm trên cần tiến hành từng bước, trước mắt xây dựng một số chương trình thí điểm để rút kinh nghiệm cả về mặt tổ chức sản xuất và xây dựng bạn hàng truyền thống, số lượng lớn, ổn định lâu dài. - Hàng dệt may: Đây là mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Khi Việt Nam gia nhập WTO thì sẽ mở rộng được thị trường. Tuy vậy, mặt hàng này có tiêu thụ được hay không vẫn còn tuỳ thuộc vào chất lượng giá cả vì vậy cần phải đầu tư đổi mới kĩ thuật, qui hoạch lại ngành công nghiệp này: tạo ra những đơn vị sản xuất (công ty, nhà máy, xí nghiệp) có qui mô tương đối lớn, hoàn chỉnh đồng bộ, tập trung thợ có tay nghề cao, để có thể tạo những lực lượng sản xuất chủ đạo cung cấp hàng đủ sức cạnh tranh cho xuất khẩu. Xoá bỏ hoặc thu gom lại những cơ sở sản xuất dệt may yếu kém hiện nay. Ngoài ra, hiệp định hàng dệt may ATC khống chế mạnh nhất là hàng sợi bông, len, gai. Vì vậy chúng ta nên tạo ra các loại sợi mới được người tiêu dùng yêu chuộng mà có thể tránh được hàng rào bảo hộ. -Lĩnh vực dịch vụ: Đây là mảng công việc lớn trong khuôn khổ của Hiệp định WTO. Các ngành có liên quan cần tổ chức nghiên cứu sâu hơn các qui chế của các hiệp định để vận dụng thích hợp trong giao dịch quốc tế của ta trong lĩnh vực này. Đối với lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại vì nhiều dịch vụ là thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân. Nguyên liệu thô là sản phẩm mà ta có nhiều lợi thế để xuất khẩu, vì vậy ta cần phải đề ra chiến lược nhằm có thể khai thác, sử dụng các tiềm năng hiện có như lao động, tài nguyên, vị trí địa lý thuận lợi ... thế nào để có hiệu quả nhất. Nếu làm được như vậy, chúng ta có thể giải quyết được các vấn đề: giải quyết được tình trạng khai thác bừa bãi tài nguyên, tạo công ăn việc làm cho người lao động và thu được ngoại tệ nhờ xuất khẩu các sản phẩm này. áp dụng chiến lược hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở những lĩnh vực cần thiết. Chúng ta cần phát huy mọi nguồn lực để sản xuất trong nước, hạn chế nhập khẩu từ nước ngoài bên cạnh tăng cường xuất khẩu. Chiến lược này giúp ta có thể tiết kiệm một lượng khá lớn ngoại tệ và có thể tạo động lực, bảo vệ cho các ngành trong nước đủ sức để phát triển và cạnh tranh với nước ngoài. Thứ năm, cuộc cải cách mậu dịch phải đồng thời giải quyết hai vấn đề : chính sánh tài chính, tỷ giá hối đoái và chính sách ngoại thương. Chính vì vậy bên cạnh phát triển chính sách ngoại thương cần phải thay đổi và phát triển chính sách về tài chính và tỷ giá hối đoái. Đối với chính sách tỉ giá chúng ta nên kết hợp với chính sách bảo lãnh tín dụng, như vậy việc thiếp lập ra một hệ thống tỷ giá cố định sẽ an toàn cho nền kinh tế của ta, nhất là khi có khủng hoảng. Đối với chính sách tài chính, nhà nước đã chủ chương sử dụng các biện pháp kích cầu từ năm 1999 nhưng hiệu quả đạt được không đáng kể. Vì vậy, muốn giải pháp kích cầu thực hiện đực phải hạ lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay để dòng vốn chảy thẳng vào các dự án đầu tư. Lãi suất tiền gửi và tiền vay do cơ quan ngân hàng tự điều tiết và quyết định, nhà nước không nên can thiệp vào. Thứ sáu, Việt Nam cần duy trì sự ổn định chính trị, những nguy cơ bất ổn chính trị còn có thể xảy ra trong nội bộ quốc gia đó nếu như dân chủ hoá không được thực hiện, phân cách giàu nghèo ngày càng tăng, quyền lợi các dân tộc không được đảm bảo, tệ quan liêu tham nhũng tràn lan không thể ngăn chặn được. Do vậy, chúng ta cần phải giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá không phải chỉ tập trung phát triển tại các khu đô thị, các khu công nghiệp.Cần phải đầu tư vào nông thôn, kết cấu hạ tầng cơ sở như: hệ thống thuỷ nông, đường sá, trường học, bệnh viện... giúp nông thôn phát triển, nông dân giảm đói nghèo. Giảm bất bình đảng về đời sông vật chất cũng như

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cơ hội, thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO.doc
Tài liệu liên quan