Có thể thấy rằng mỗi địa phương có một đặc thù riêng dẫn đến nguồn lực, yêu cầu và khả năng quản lý rất khác nhau từ đó việc phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương là không giống nhau. Vì vậy không thể phân giao nguồn thu giống nhau cho các cấp ngân sách ở địa phương mà tỉ lệ phần trăm phân chia các khoản thu ngân sách do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định phù hợp với đặc thù của từng cấp ngân sách địa phương.Việc pháp luật quy định các nguyên tắc phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương là hoàn toàn hợp lý, đảm bảo tính thống nhất trong việc phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách địa phương.
4 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2416 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các quy định của pháp luật hiện hành về phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước là việc sắp xếp, bố trí các bộ phân cấu thành hệ thống ngân sách nhằm thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ thu, chi của từng cấp ngân sách cũng như toàn bộ hệ thống ngân sách nhà nước. Ở nước ta việc tổ chức hệ thống ngân sách dựa vào hệ thống các đơn vị hành chính, bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Giữa các câp ngân sách có sự phân phối nguồn thu và nhiệm vụ chi một cách cụ thể đó là sự phân chia giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương và sự phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Trong phạm vi bài tập này em xin làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương.
Nội dung
1. Quy định của pháp luật hiện hành về phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương.
Thu ngân sách nhà nước là huy động một bộ phận giá trị sản phẩm xã hội, theo quy định của pháp luật, làm hình thành quỹ ngân sách nhà nước. Phân chia nguồn thu ngân sách nhà nước là việc xác định mỗi cấp ngân sách được tập trung những nguồn thu nào và mức độ tập trung đến đâu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước 2002 thì ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Hiện nay các đơn vi hành chính có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở nước ta gồm có đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Vì vậy, ngân sách địa phương gồm ngân sách tỉnh, ngân sách huyện và ngân sách xã. Như vậy phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách địa phương chính là phân chia nguồn thu giữa ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã. Luật ngân sách nhà nước 2002 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định về nguyên tắc phân phối nguồn thu cũng như phân định cụ thể nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương.
Trước hết về thẩm quyền phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương thuộc về Hội đồng nhân dân tỉnh “…Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) quyết định viẹc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn” (điểm c Khoản 2 Điều 4 Luật NSNN). Có thể thấy rằng việc giao quyền quyết định phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương cho Hội đồng nhân dân tỉnh là hoàn toàn phù hợp bởi cơ quan chính quyền nhà nước cấp tỉnh hơn ai hết nắm rõ đặc thù, khả năng và nhu cầu của địa phương mình, nắm bắt nhanh nhạy tình hình và những biến chuyển có liên quan tới các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn mình quản lý vì vậy có thể thực hiện việc phân chia nguồn thu phù hợp giữa các cấp.
Tuy nhiên quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh không thể tùy tiện mà phải phù hợp với các nguyên tắc pháp lý được quy định trong Luật NSNN 2002 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Điều 34 Luật NSNN 2002 thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân cấp cụ thể nguồn thu cho từng cấp ngân sách của chính quyền địa phương theo nguyên tắc:
Phù hợp với phân cấp nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh đối với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư của từng vùng và trình độ quản lý của địa phương.
Trong các nguồn thu của ngân sách xã, thị trấn, ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% các khoản thu thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà, đất; thuế môn bài; thuế thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất.
Trong các nguồn thu ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà đất
Bên cạnh các nguyên tắc quy định trong Luật NSNN 2002, Điều 6 Nghị định 60/2003/NĐ-CP bổ sung thêm một số nguyên tắc:
Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi quản lý.
Việc phân cấp nguồn thu giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, thời gian thực hiện phân cấp này phải phù hợp với thời kỳ ổn định ngân sách ở địa phương, cấp xã được tăng cường nguồn thu, phương tiện và cán bộ quản lý tài chính – ngân sách để quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa bàn được phân cấp.
Kết thúc mỗi kỳ ổn định ngân sách, căn cứ vào khả năng nguồn thu và nhiệm vụ chi của từng cấp, Hội đồng nhân dân quyết định điều chỉnh mức bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, quyết định việc điều chỉnh tỉ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp.
Dựa vào những nguyên tắc pháp lý trên, căn cứ tỉ lệ phần trăm chia các khoản thu do Thủ tướng chính phủ giao và các nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng 100%, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định tỉ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm yêu cầu “Gắn với nhiệm vụ và khả năng quan lý của từng cấp, hạn chế việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; khuyến khích các cấp tăng cường quản lý, chống thất thu; hạn chế phân chia nguồn thu có quy mô nhỏ cho nhiều cấp” (Khoản 1 Điều 23 Nghị định 60/2003/NĐ-CP).
Có thể thấy rằng mỗi địa phương có một đặc thù riêng dẫn đến nguồn lực, yêu cầu và khả năng quản lý rất khác nhau từ đó việc phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương là không giống nhau. Vì vậy không thể phân giao nguồn thu giống nhau cho các cấp ngân sách ở địa phương mà tỉ lệ phần trăm phân chia các khoản thu ngân sách do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định phù hợp với đặc thù của từng cấp ngân sách địa phương.Việc pháp luật quy định các nguyên tắc phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương là hoàn toàn hợp lý, đảm bảo tính thống nhất trong việc phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách địa phương.
Các quy định của pháp luật về phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương cũng đảm bảo tính tự chủ cho các cấp ngân sách địa phương sao cho địa phương có thể chủ động thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi quản lý của mình. Bởi ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, ngân sách xã đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được giao phó trên địa bàn mình quản lý. Vì vậy khi được phân định nguồn thu cụ thể, các cấp chính quyền ở địa phương mới có thể chủ động lên kế hoạch thu nhằm hình thành nên quỹ ngân sách của địa phương mình. Trong các quy định của pháp luật về phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương có thể thấy rằng ngân sách cấp xã rất được quan tâm. Cấp xã được tăng cường nguồn thu, phương tiện và cán bộ quản lý tài chính – ngân sách để quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa bàn được phân cấp. Để đảm bảo chủ trương tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã, ngoài các nguồn thu theo quy định của Hội đồng nhân dân, ngân sách xã còn được hưởng tối thiểu 70% một số khoản thu về thuế có liên quan đến đất và một số loại lệ phí (điểm b khoản 1 Điều 34 Luật NSNN 2002). Sở dĩ phải tăng cường nguồn lực cho ngân sách cấp xã là do cấp xã là cấp thấp nhất trong tổ chức hệ thống ngân sách ở địa phương, địa bàn quản lý hẹp và là cấp trực tiếp thu và quản lý nguồn thu trên địa bàn trước khi nộp cho ngân sách cấp trên. Vì vậy những quy định của Luật NSNN hiện hành đã tạo điều kiện để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách xã, từ đó khuyến khích chính quyền xã chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, bồi dưỡng nguồn thu, chống thất thu trên phạm vi xã mình, thực hiện tiết kiệm chi để tự cân đối ngân sách và tăng cường đóng góp cho ngân sách cấp trên.
Việc pháp luật quy định về việc phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các cấp chính quyền ở địa phương có thể định lượng được các khoản thu trên địa bàn mình quản lý, từ đó có thể dự toán được khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân sách và phần còn thiếu mà ngân sách cấp trên phải chi điều tiết bổ sung. Từ đó phát huy tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương trong việc huy động các nguồn tài chính phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương mình.
2. Lý do pháp luật hiện hành quy định toàn bộ các khoản thu từ đất thuộc về ngân sách địa phương.
Bên cạnh các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, có những khoản thu mà ngân sách địa phương được hưởng 100% được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật NSNN 2002. Trong các khoản thu đó có thể thấy rằng toàn bộ các nguồn thu ngân sách nhà nước từ đất đai đều thuộc về ngân sách địa phương. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là do:
Thứ nhất, đất đai là một loại tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu của toàn dân do nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Tuy nhiên nhà nước không trực tiếp quản lý đất đai mà giao cho các cấp chính quyền địa phương thực hiện. Điều này được quy định trong khoản 4 Điều 7 Luật Đất đai 2003 “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại luật này”. Việc phân cấp quản lý đất đai dựa vào địa giới hành chính giữa các địa phương và có thể thấy việc phân cấp quản lý đất đai tương ứng với phân chia các cấp ngân sách ở địa phương. Trên cơ sở thực hiện hoạt động quản lý đất đai, chính quyền địa phương thực hiện các khoản thu ngân sách từ đất đai là hoàn toàn phù hợp.
Thứ hai, đất đai là tài nguyên gắn liền với mỗi địa phương và ở mỗi địa phương khác nhau sẽ có những đặc trưng về đất đai khác nhau. Việc quy định toàn bộ các khoản thu từ đất thuộc ngân sách địa phương thể hiện tính độc lập tự chủ cho ngân sách địa phương. Nó tạo điều kiện để chính quyền địa phương có thể tận dụng, phát huy thế mạnh về tài nguyên đất của địa phương mình để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách địa phương từ đó thực hiện nhiệm vụ chi của địa phương. Đồng thời nó cũng nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quản lý đất đai và chăm lo phát triển quỹ đất của địa phương mình.
Kêt luận
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy pháp luật hiện hành đã có những quy định cụ thể về việc phân chia nguồn thu giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương và giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Nhưng quy định này là cơ sở để chính quyền địa phương phân chia nguồn thu cụ thể giữa các cấp ngân sách ở địa phương mình đảm bảo sự độc lập tự chủ cho ngân sách địa phương và sự đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích quy định của PL hiện hành về phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách ở địa phương Lí do Pl quy định toàn bộ các khoản thu từ đất thuộc về.doc