MỤC LỤC
Chương I : Cơ sở lí luận về các quyết định của sản phẩm
1. Sản phẩm theo quan điềm Marketing
1.1. Khái niệm về sản phẩm 3
1.2. Các cấp độ của sản phẩm 4
1.3. Phân loại sản phẩm 6
2. Các quyết định về nhãn hiệu 5
3. Quyết định về bao bì, đóng gói 8
4. Quyết định về chủng loại và danh mục sản phẩm 11
5. Thiết kế sản phẩm mới 11
6. Chu kì sống của sản phẩm 24
Chương II : Thực trạng quá trình phát triển của dầu gội đầu Clear Men 29
41 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 9065 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các quyết định về sản phẩm của dầu gội đầu Clear Man, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế nào?
Có nhiều cách để một công ty xuất nhập khẩu tạo ra sản phẩm mới cho việc thâm nhập thị trường thế giới:
- Cách dễ nhất là xuất khẩu những sản phẩm hiện có, đang tiêu thụ nội địa; chiến lược này rất dễ dàng để thực hiện, ít nhất là ở giai đoạn đầu và nó có thể giúp cho việc giảm chi phí khi tiếp cận thị trường thế giới.
- Cách thứ hai tương đối dễ, tất nhiên là không hoàn toàn kinh tế, là mua hẳn một xí nghiệp hoặc mua một phần để nắm quyền điều hành xí nghiệp và hãng này đang có sản phẩm tiêu thụ ở thị trường nước sở tại hoặc sản phẩm hãng đó có thể được xuất khẩu sang một quốc gia thứ ba.
Một công ty cũng có thể sản xuất ra một sản phẩm mới từ việc mô phỏng một sản phẩm đã có sẵn và đang được ưa chuộng trên thị trường quốc tế để làm sản phẩm mới riêng của mình, từ đó xuất khẩu thâm nhập thị trường nước ngoài.Tất nhiên cách làm này không phải là cách làm của các công ty hàng đầu, đang dẫn dắt thị trường trên thế giới.
- Ngược lại với cách mô phỏng trên lại có những công ty đã có những sản phẩm với chất lượng tốt họ sẵn sàng bán cho những công ty nước ngoài và đồng ý in nhãn hiệu theo yêu cầu của công ty nước ngoài.
- Sau cùng, công ty có thể tạo ra một sản phẩm mới bằng cách phát triển phần bên trong của sản phẩm. Tiến hành phát triển sản phẩm từ bên trong có thể được xem là một quá trình tiến hoá từ ý tưởng chung đến việc phân tích thương mại, đến phát triển, đến thương mại hóa sản phẩm hoặc giới thiệu sản phẩm, mỗi giai đoạn được tiếp tục thực hiện tạo thêm rất nhiều tốn kém ở khía cạnh tiền bạc lẫn thời gian.
è Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của việc phát triển sản phẩm mới. Nhịp độ thay đổi và tiến bộ công nghệ khiến các công ty buộc phải phát triển các giải pháp mới và hiệu quả hơn để giải quyết các vấn đề của khách hàng. Nếu không, các đối thủ cạnh tranh sẽ dễ dàng tấn công và giành lấy thị trường của họ.
Một khi người tiêu dùng đã hài lòng với sản phẩm hay dịch vụ hiện đang sử dụng, họ sẽ không còn sốt sắng chuyển sang những sản phẩm hay dịch vụ khác. Đặc biệt, những người bận rộn sẽ không thực hiện những thay đổi không cần thiết vì điều này sẽ phá hỏng sự thoải mái của họ, mất nhiều thời gian và nguy cơ rủi ro cao. Nhà cung cấp có thể duy trì cảm giác thoải mái và hài lòng của những người này bằng cách liên tục cải thiện sản phẩm theo những hình thức sau:
+ Giảm giá khi bạn có thể tiết kiệm chi phí.
+ Thường xuyên nâng cấp chất lượng sản phẩm.
+ Huấn luyện nhân viên bán hàng những kỹ năng dịch vụ khách hàng tốt nhất trong phạm vi có thể.
+ Hãy đem lại những điều mới lạ cho sản phẩm để khách hàng cảm thấy thú vị và ngạc nhiên.
Có nhiều cách để duy trì sự hài lòng của khách hàng mà không cần phải tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ mới. Việc cải tiến thường xuyên sẽ giúp sản phẩm hay dịch vụ của bạn tốt hơn và giữ chân khách hàng lâu dài hơn, nếu bạn tập trung vào những điều thật sự có ý nghĩa với khách hàng.
Hãy dành thời gian để suy nghĩ về khách hàng của bạn. Điều gì có ý nghĩa thật sự đối với khách hàng ? Bạn có thể làm gì để cải thiện những điều quan trọng đó?
Chương này đã trình bày nhiều khía cạnh quan trọng của quy trình tạo ra sản phẩm mới và xem xét vai trò của công tác marketing trong các giai đoạn của quy trình. Đây là những vấn đề mà các công ty cần phải cân nhắc kỹ lưỡng khi tiến hành công việc kinh doanh trong thị trường ngày nay.
Quy trình phát triển sản phẩm mới :
1.Tìm ra những ý tưởng mới :
Mục đích của giai đoạn này là tìm ra những ý tưởng về sản phẩm mới càng nhiều càng tốt. Các yếu tố cần xem xét khi đánh giá một ý tưởng về sản phẩm:
Thị trường của sản phẩm dự kiến
Sự sẵn có về nhiên liệu
Sự sẵn có lao động có kỹ năng
Mức phức tạp của sản xuất
Yêu cầu về cơ sở hạ tầng
Yêu cầu về vốn
Thị trường của sản phẩm dự kiến
Điểm đầu tiên cần xét đến là thị trường của sản phẩm. Nếu nhu cầu thị trường đủ lớn và giá cả hợp lý thì cần quan tâm đến ý tưởng nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu không có thị trường thì không cần xét đến ý tưởng cụ thể nào thêm nữa.
Sự sẵn có về nguyên liệu
Khi thấy có thị trường, doanh nhân nhất thiết phải kiểm tra xem khả năng sẵn có về nguyên vật liệu hay không. Nếu việc thu mua nguyên liệu khó khăn, họ cần phải đưa vào dự toán về chi phí vận chuyển tăng thêm do phải vận chuyển nguyên vật liệu xa hơn và chi phí cho việc mua số lượng lớn nhằm bảo đảm tiến độ sản xuất.
Sự sẵn có lao động có kỹ năng
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải dựa vào người lao động khi cung cấp sản phẩm hay dịch vụ ra thị trường. Sản xuất sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào người sản xuất, xem xét người công nhân và trình độ lao động của họ như thế nào. Kỹ năng của người công nhân hoặc thành viên sáng lập của doanh nghiệp nhóm rất quan trọng trong việc ra quyết định về lựa chọn ý tưởng sản phẩm và là một yếu tố quan trọng cần phải được quan tâm.
Mức phức tạp của sản xuất
Như đã nói ở trên, kỹ năng của người lao động rất quan trọng. Cũng như vậy, độ phức tạp của sản xuất cũng cần phải được xem xét đến. Doanh nhân phải có kiến thức trong ngành, lĩnh vực sản xuất và qui trình sản xuất một sản phẩm.
Yêu cầu về cơ sở hạ tầng
Việc sản xuất đòi hỏi địa điểm sản xuất có nguồn cung cấp điện và nhiên liệu, máy móc thiết bị, nguồn nước và hệ thống giao thông thuận lợi cho việc thu mua nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Tất cả những yếu tố trên được gọi là cơ sở hạ tầng. Doanh nhân cần phải đảm bảo rằng các yếu tố trên sẵn sàng đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất. Nếu không, họ sẽ cảm thấy khó khăn khi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ, sản xuất nhôm yêu cầu mức tiêu hao điện năng rất lớn. Nếu không có nguồn cung cấp điện năng thì doanh nhân không thể tạo ra lợi nhuận từ sản xuất nhôm.
Yêu cầu về vốn
Cuối cùng, doanh nhân cần phải lập kế hoạch về vốn sản xuất. Doanh nhân cần mua/thuê đất đai nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguồn cung cấp điện năng và nhiều chi phí khác để dự án kinh doanh đi vào sản xuất cũng như các chi phí cho hoạt động thường ngày. Tất cả những điều đó cần có lượng tiền nhất định để đầu tư vào doanh nghiệp. Doanh nhân có thể vay vốn từ ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính, huy động vốn từ gia đình bạn bè và sử dụng vốn tiết kiệm cá nhân. Vốn để doanh nhân khởi sự doanh nghiệp sẽ quyết định việc sản xuất sản phẩm có được tiến hành hay không.
Những ý tưởng đó có thể xuất phát từ khách hàng, từ những chuyến tham quan đây đó, từ quan sát cạnh tranh hay từ việc xem triển lãm trưng bày, từ những ý kiến của nhân viên trong doanh nghiệp hay có thể từ việc áp dụng phương pháp của năng lực tư duy sáng tạo mà trong đó phổ biến nhất là phương pháp động não do Osborn đề ra.
Brainstorming Method (phương pháp não công – hay còn gọi là phương pháp động não):
BSM được Osborn, người Mỹ đưa ra năm 1938, phương pháp này có mục đích thu về được thật nhiều ý tưởng để giải quyết vấn đề cho trước bằng cách làm việc tập thể.
Các bước để BSM :
+ Bước 1: Chọn nhóm phát ý tưởng – nhóm người giàu trí tưởng tượng, có khả năng phát nhiều ý tưởng hơn người khác, nhưng hạn chế về mặt phê bình, phân tích. Chọn ra một số người thuộc nhiều ngành nghề, chuyên môn, kỹ năng khác nhau, thậm chí có thể cách xa với lĩnh vực chuyên môn của vấn đề cần giải quyết. Các thành viên trong nhóm tiếp xúc với vấn đề (nhóm có thể từ 3-15 người, không nên ít quá, cũng không nên nhiều quá).
+ Bước 2: Chọn nhóm Phê bình – nhóm người giỏi phân tích phê phán, tư duy sắc bén và tỉnh táo.
+ Bước 3: Chọn Leader (lãnh đạo) điều phối chương trình phát ý tưởng. Vai trò của người lãnh đạo thể hiện ở chỗ điều khiển được buổi BSM thông qua việc phát biểu vấn đề ở mức khái quát nhất (người có khả năng nhìn sự việc một cách tổng thể, đa góc cạnh), các khái niệm chung, đơn giản, rõ ràng, đặt câu hỏi gợi ý để xúc tác, thường là người có kinh nghiệm, am hiểu về vấn đề.
+ Bước 4: Nhóm phát ý tưởng làm việc. (5-15 phút)
+ Bước 5: Nhóm phê bình làm việc. (tùy thời lượng và số lượng yêu cầu)
+ Bước 6: Tổng hợp đánh giá
2. Chọn lọc đánh giá ý tưởng mới :
Thông thường doanh nghiệp rất đắn đo giữa nhiều ý tưởng mới – chọn ý tưởng nào? Và ý tưởng nào sẽ phù hợp nhất với mục tiêu, chiến lược, và tiềm lực của doanh nghiệp, bởi vì nếu không loại những ý tưởng kém cỏi thì sẽ tốn kém rất nhiều chi phí trong những giai đoạn tiếp theo và đồng thời không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cho nên trong quá trình chọn lọc và đánh giá những ý tưởng mới cần phải mô tả sản phẩm mới, thị trường mục tiêu, và mức cạnh tranh đồng thời phải đưa ra một số ước lượng chặt chẽ về quy mô thị trường, giá cả sản phẩm, thời gian và chi phí dành cho việc triển khai, chi phí sản xuất và tốc độ thu hồi vốn.
3. Phát triển và thử nghiệm khái niệm :
Khái niệm sản phẩm đó là sự chuyển đạt một ý tưởng thành những ngôn từ cho khách hàng hiểu được. Nhiệm vụ của người làm Marketing là phát triển ý tưởng thành những khái niệm và đánh giá mức hấp dẫn đối với khách hàng của từng khái niệm ấy để có thể chọn ra sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Khái niệm sản phẩm mô tả kiểu dáng, màu sắc, cỡ khổ, mùi vị, tính năng sử dụng và giá cả sản phẩm.
Sau đó đưa những khái niệm ấy ra thử nghiệm ở nhóm khách hàng thích hợp mà công ty đang muốn hướng đến bằng các câu hỏi như khái niệm sản phẩm đó đã rõ chưa, sản phẩm có đáp ứng nhu cầu không hay theo bạn nên cải tiến đặc điểm gì…
4. Hoạch địch chiến lược Marketing :
Đến đây doanh nghiệp phải triển khai sơ bộ một chiến lược marketing để tung sản phẩm ra thị trường. Bản chiến lược Marketing gồm 3 phần:
Phần thứ nhất mô tả quy mô, cơ cấu, hành vi của thị trường mục tiêu, dự kiến định vị và bán sản phẩm, thị trường và mức lợi nhuận mong đợi trong một vài năm đầu.
Phần thứ hai dự kiến giá sản phẩm, chiến lược phân phối và kinh phí Marketing cho năm đầu tiên.
Phần thứ ba trình bày chỉ tiêu mức tiêu thụ lợi nhuận lâu dài và chiến lược Marketing Mix theo thời gian.
5. Phân tích về mặt kinh doanh :
Sau khi quyết định xong về khái niệm sản phẩm về chiến lược Marketing, công ty có thể đánh giá mức hấp dẫn về mặt kinh doanh của sản phẩm mới này bao gồm việc xem xét các dự đoán về doanh số, chi phí, tiền lãi để xác định có thỏa mãn các mục tiêu của doanh nghiệp hay không.
6. Phát triển sản phẩm :
Nếu khái niệm sản phẩm qua phân tích về mặt kinh doanh thỏa mãn được các mục tiêu của doanh nghiệp thì sẽ được chuyển đến bộ phận nghiên cứu và phát triển để phát triển thành sản phẩm vật chất. Ở đây, bộ phận nghiên cứu và phát triển sẽ phát triển thành một hay nhiều dạng mẫu đi thử nghiệm bao gồm thử nghiệm về tính năng và thử nghiệm ở khách hàng để xem xét mức độ đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật của sản phẩm.
7. Thử nghiệm trên thị trường :
Nếu sản phẩm vượt qua những thử ngiệm về tính năng và khách hàng thì được tiếp tục thử nghiệm trên thị trường. Thử nghiệm trên thị trường cho phép thu được những thông tin có giá trị về người mua, các đại lý, hiệu quả của chương trình Marketing, tiềm năng của thị trường để doanh nghiệp chuẩn bị tung sản phẩm.
8. Thương mại hóa sản phẩm :
Sau khi thử nghiệm trên thị trường, với nhiều thông tin được thu thập, ban lãnh đạo doanh nghiệp sẽ quyết định tung sản phẩm ra thị trường hay không. Nếu doanh nghiệp tiếp tục thương mại hóa sản phẩm thì phải cân nhắc đến bốn quyết định quan trọng, đó là:
Ä Chọn thời điểm để tung sản phẩm ra thị trường có lợi hơn.
Ä Chọn khu vực để tung sản phẩm ra thị trường.
Ä Xác định khách hàng triển vọng của thị trường mục tiêu.
Ä Cách thức giới thiệu sản phẩm có hiệu quả khi tung chúng ra thị trường.
| | |
Tóm tắt
+ Sản phẩm mới được thể hiện dưới hai hình thức: sản phẩm mang tính đột phá và sản phẩm cải tiến.
+ Sản phẩm mang tính đột phá thay đổi cơ sở cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh của chúng.
+ Vì thế giới quan của hầu hết mọi người chỉ gói gọn trong các sản phẩm hiện hữu, nên khách hàng thường chỉ có thể mô tả những gì họ mong muốn dựa trên những đặc tính sản phẩm hiện có. Hiếm người có thể tưởng tượng một điều gì đó hoàn toàn mới. Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu nên cố gắng để hiểu được những yếu tố mà khách hàng sẽ đánh giá cao.
+ Sản phẩm cải tiến khai thác các hình thức hoặc công nghệ của sản phẩm hiện tại. Thời gian, chi phí và nguồn lực để phát triển các sản phẩm cải tiến không nhiều; hơn nữa, sản phẩm này cũng gặp phải rủi ro thị trường.
+ Các phương pháp nghiên cứu thị trường truyền thống có thể áp dụng cho việc phát triển sản phẩm cải tiến.
+ Mở rộng dòng sản phẩm theo chiều ngang là tìm cách thu hút các thị hiếu khác nhau của khách hàng (ví dụ: sô-cô-la Kisses của Hershey so với sô-cô-la hạnh nhân Kisses).
+ Mở rộng dòng sản phẩm theo chiều dọc nhằm cung cấp một sản phẩm hợp khả năng và mức độ nhu cầu khác nhau của mọi người (ví dụ: các biến thể "tốt", "tốt hơn" và "tốt nhất" của cùng một sản phẩm).
+ Nền tảng sản phẩm tạo điều kiện mở rộng dòng sản phẩm cải tiến với chi phí thấp.
+ Quy trình phát triển sản phẩm mới bao gồm phát sinh ý tưởng, nhận biết cơ hội, phát triển, thử nghiệm, thương mại hóa và quản lý sản phẩm.
+ Nhiều công ty dùng hệ thống giai đoạn - cổng để loại bỏ những ý tưởng sản phẩm yếu kém và phát triển những ý tưởng có giá trị.
+ Những người làm công tác marketing có nhiệm vụ cung cấp ý tưởng và ý kiến phản hồi ở tất cả các cổng trong hệ thống giai đoạn - cổng. Nhiệm vụ này sẽ nặng nề hơn khi sản phẩm tiếp cận thị trường và đi vào giai đoạn thương mại hóa.
+ Việc phát triển sản phẩm mới đầy rủi ro và tốn kém nhưng đó là điều cần thiết để bù đắp tổn thất doanh thu từ các sản phẩm hiện hữu trong suốt giai đoạn suy tàn của một vòng đời sản phẩm. Các công ty có thể trì hoãn những tổn thất này bằng cách liên tục cải thiện sản phẩm họ đang cung cấp cho khách hàng.
Đặc điểm của quá trình phát triển sản phẩm mới :
Để đảm bảo phát triển một sản phẩm mới thành công, doanh nghiệp cần chú trọng vào những đặc điểm cơ bản sau đây:
Sự ràng buộc của tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiến bộ về mặt kinh tế: Việc bảo đảm toàn diện cả sự tiến bộ về kỹ thuật và sự tiến bộ về kinh tế là yêu cầu bắt buộc trong việc phát triển sản phẩm mới. Người ta thường gặp trường hợp sản phẩm mới có thể đạt được sự tiến bộ đáng kể về mặt kỹ thuật, song chưa chắc đã đã đạt được sự tiến bộ về mặt kinh tế. Chẳng hạn sản phẩm mới có công dụng, tính năng hoàn thiện hơn hẳn sản phẩm hiện có, nhưng thời hạn nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm kéo dài, chi phí sản xuất lớn làm giá bán cao, hoặc nảy sinh sự phức tạp trong xử dụng. Việc đưa sản phẩm mới loại này ra thị trường gặp nhiều khó khăn, thậm chí sẽ thất bại do khách hàng từ chối mua.
Sự rủi ro và tính mạo hiểm trong việc phát triển mới Quyết định phát triển sản phẩm mới ít nhiều mang tính chất mạo hiểm. Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm mới là điều dễ tìm thấy sự nhất trí trong những người có trách nhiệm của doanh nghiệp. Song họ lại không thể khẳng định được một cách chắc chắn sự thành công của việc tung sản phẩm mới ra thị trường, hoặc mức độ thành công có thể thu được từ phát triển sản phẩm mới sẽ là bao nhiêu. Dù đã có sự nghiên cứu thị trường, khách hàng và đối thủ cạnh tranh, nhưng những rủi ro có thể gặp phải trong kinh doanh sản phẩm mới và mức độ tác động của những ruỉ ro này là những yếu tố không thể tiên liệu hết, thậm chí không thể tiên liệu trước được.
Những ràng buộc về tài chính cho sự phát triển sản phẩm mới: Phát triển sản phẩm mới bao giờ cũng đòi hỏi những điều kiện về kinh tế - tài chính mà không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng bảo đảm được. Với các doanh nghiệp quyết tâm thực hiện phát triển sản phẩm mới, cần phải giành một ngân sách thoả đáng cho việc thực hiện các công việc khác nhau của quá trình phát triển sản phẩm mới. Ngân sách này phải đủ lớn để nắm bắt được những thành tựu mới của khoa học và công nghệ liên quan đến doanh nghiệp, để phản ứng mau lẹ với sự thay đổi của thị trường.
Tại sao tâm trạng háo hức của các nhà sản xuất khi tung sản phẩm mới ra thị trường lại vấp phải thái độ thờ ơ, thậm chí lạnh nhạt của người tiêu dùng? Câu hỏi đặt ra trở nên quá khó khăn với nhiều chuyên gia marketing và phân tích thị trường….
Để nhìn nhận một cách toàn diện hơn nguyên nhân của những thất bại này, bạn có thể tham khảo quan điểm đối với sản phẩm mới từ cả hai phía nhà sản xuất và người tiêu dùng như sau:
v Đối với người tiêu dùng: Sự tiện nghi đồng nghĩa với sự quen thuộc. Họ đánh giá cao các lợi ích của sản phẩm mà họ đã từng sử dụng một cách hợp lý. Họ ghét cay ghét đắng việc thay đổi hành vi đã trở thành thói quen của mình để chuyển sang sử dụng một sản phẩm mới, ví dụ như học cách sử dụng một phần mềm mới để chỉnh sửa ảnh kỹ thuật số chẳng hạn. Vì vậy, họ thường phớt lờ những lời mời chào của những sản phẩm mới, khách quan mà nói, có chất lượng cao hơn hẳn thứ mà họ đang sử dụng.
v Đối với các nhà sản xuất: họ biết sự đổi mới thường là tốt hơn những gì đã có, và đánh giá cao sự tiện nghi hơn hẳn của sản phẩm mới này sẽ mang lại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, họ lại giả thuyết sai lầm rằng, người tiêu dùng sẽ chộp vội lấy cơ hội này để mua sản phẩm của họ. Kết quả sẽ ra sao? Có một khoảng cách khá lớn về sự không phù hợp giữa những gì mà nhà đổi mới nghĩ về sự mong đợi của người tiêu dùng và những gì mà người tiêu dùng thực sự muốn.
Vậy làm thế nào để sản phẩm mới mà bạn đưa ra dễ được người tiêu dùng chấp nhận?
Để đảm bảo chắc chắn người tiêu dùng sẽ chấp nhận sự đổi mới sản phẩm của bạn, bạn có thể áp dụng các chiến lược sau đây:
1. Phán đoán chính xác tiềm năng chống đối của người tiêu dùng :
Hầu hết mọi sản phẩm mới đều yêu cầu phải có sự thay đổi. Để xác định mức độ thay đổi mà bạn yêu cầu người tiêu dùng phải có khi sử dụng sản phẩm mới, bạn phải quyết định loại sản phẩm nào phù hợp nhất đối với sự đổi mới của bạn.
2. Giảm đến mức tối thiểu hành vi chống đối của người tiêu dùng :
Sử dụng các chiến lược như thế này sẽ hạn chế việc kéo dài sự thay đổi hành vi mà nhà sản xuất đòi hỏi ở người tiêu dùng:
+ Sản xuất những sản phẩm tương thích với hành vi.
+ Hướng tới đối tượng người tiêu dùng không có thói quen sử dụng chỉ một loại sản phẩm cố định.
+ Tìm ra những “tín đồ” trung thành.Hãy xác định đâu là nhóm người tiêu dùng đánh giá cao những lợi ích mà họ sẽ có được từ sự đổi mới của bạn, hoặc họ chỉ mất đi rất ít lợi ích khi từ bỏ thói quen sử dụng sản phẩm cũ để chuyển sang sử dụng sản phẩm của bạn.
Chủng loại
Mô tả sự thay đổi
Ví dụ
Các sản phẩm dễ bán.
+ Nhà sản xuất chỉ đổi mới rất ít tính năng, đặc điểm của sản phẩm đối với người tiêu dùng, đòi hỏi sự thay đổi hành vi rất ít
+ Bàn chải đánh răng có góc ở đầu
Không chắc chắn mang lại thành công.
+ Đưa ra rất ít lợi ích mới, nhưng lại đòi hỏi sự thay đổi hành vi lớn. Khả năng được chấp nhận không nhiều lắm
+ Bàn phím Dvorak: mặc dù nó giúp giảm chuyển động của ngón tay và tăng tốc độ gõ so với bàn phím chuẩn QWERTY, nhưng lại yêu cầu người sử dụng thay đổi hoàn toàn thói quen sử dụng bàn phím QWERTY
Các sản phẩm muốn được chấp nhận phải trải qua một quá trình có thời gian dài
+ Đưa ra những biến đổi bất ngờ trong lĩnh vực công nghệ, yêu cầu thay đổi hành vi cơ bản và muốn được chấp nhận phải trải qua một thời gian dài
+ XM radio: Radio sử dụng vệ tinh đi theo quỹ đạo để có thể thu nhận tín hiệu ở ngoài biển, nhưng lại yêu cầu người sử dụng phải mua các thiết bị chuyên dụng và trả tiền sử dụng dịch vụ
Các sản phẩm mang lại thành công bất ngờ
+ Chào mời những lợi ích lớn, trong khi đòi hỏi sự thay đổi hành vi ở mức tối thiểu
Google: áp dụng thuật toán tìm kiếm mới nhưng lại không thay đổi giao diện sử dụng Web đã rất quen thuộc với người sử dụng
3. Kiểm soát, quản lý sự chống đối của người tiêu dùng :
Rất nhiều sản phẩm được đánh giá là rất có giá trị, đặc biệt là những sản phẩm muốn được chấp nhận phải trải qua một quá trình nhất định, vì sự thay đổi hành vi khi sử dụng sản phẩm này là không thể tránh khỏi. Hãy xem xét việc áp dụng các chiến lược sau đây, bạn có thể kiểm soát sự kháng cự, chống đối sử dụng sản phẩm mới của người tiêu dùng khi phải thay đổi hành vi:
+ Không tỏ ra nóng vội và khích lệ sự chấp nhận chậm chạp từ phía người tiêu dùng. Chấp nhận một sự thật rằng, những thuộc chủng loại Long Hauls không thể ngay lập tức được mọi người ưa chuộng. Hãy tránh làm suy yếu các nguồn lực của bạn một cách quá nhanh.
+ Sản phẩm mới của bạn mang lại lợi ích gấp 10 lần sản phẩm hiện tại người tiêu dùng sử dụng.
6. Chu kì sống của sản phẩm :
Khái niệm này đã được giới thiệu một cách tóm tắt ở phần trước. Trước đó, chúng ta đã ghi nhận rằng, những sản phẩm đều có những chu kỳ sống của chúng. Chu kỳ sống của sản phẩm được chia làm 5 bước:
+ Giới thiệu;
+ Tăng trưởng;
+ Trưởng thành;
+Suy giảm;
+ Và có thể diệt vong.
Sự thành công của một xí nghiệp trên thị trường có thể bị ảnh hưởng một cách đáng kể bởi khả năng hiểu biết và quản lý chu kỳ sống của sản phẩm của xí nghiệp đó.
Những bước của chu kỳ sống gần như bằng nhau, mặc dầu thực tế nó không phải vậy. Những bước khác nhau trong bất kỳ chu kỳ sống nào được đưa ra thường kéo dài trong những khoảng thời gian khác nhau. Cũng vậy, sự kéo dài của mỗi bước sẽ khác nhau giữa những sản phẩm khác nhau. Một số sản phẩm trải qua nhiều năm trong giai đoạn giới thiệu, trong khi một số sản phẩm khác chỉ trải qua trong một vài tuần. Hơn nữa, không phải tất cả sản phẩm nào cũng trải qua hết các giai đoạn của chu kỳ. Một số sản phẩm có thể thất bại ngay ở giai đoạn giới thiệu, và một số sản phẩm khác không được giới thiệu cho tới khi thị trường ở giai đoạn tăng trưởng và trưởng thành. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp sự suy giảm và khả năng bị diệt vong là không thể tránh khỏi (inevitable), bởi vì nhu cầu cho sản phẩm không còn nữa; một sản phẩm tốt hơn hoặc rẻ hơn được đưa ra để làm thỏa mãn cùng một nhu cầu; hoặc là đối thủ xúc tiến làm thị trường mạnh mẽ hơn.
Đặc tính của mức tiêu thụ và lợi nhuận trong toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm hàng hóa từ khi được sản xuất ra cho đến khi suy tàn
Chu kỳ sống của sản phẩm có thể được thể hiện bởi đường cường độ doanh số và đường lợi nhuận. Hình dạng của 2 đường này sẽ khác nhau cho mỗi sản phẩm. Tuy nhiên, hình dạng cở bản của 2 đường và mối quan giữa chúng nói chung là giống nhau. Độ dài của chu kỳ sống cũng khác nhau giữa các sản phẩm. Nó sẽ kéo dài trong một vài tuần hoặc là một mùa ngắn, cũng có thể kéo dài trong một vài thập kỷ.
¯ Giai đoạn tung ra thị trường – Giai đoạn giới thiệu :
Trong giai đoạn này, một hoặc nhiều người tiên phong nỗ lực tập trung vào một thứ gì đó mới mẻ và còn xa lạ. Lúc này, marketing có hai nhiệm vụ: xây dựng ý thức về chủng loại sản phẩm và hướng dẫn khách hàng tiềm năng cách họ có thể sử dụng sản phẩm đó nhằm phục vụ lợi ích bản thân.
Doanh số tăng chậm.
Lợi nhuận âm do chi phí chiêu thị và phân phối lớn.
Giá cao do chi phí cao ( do sản lượng thấp), còn nhiều vấn đề về công nghệ và sản xuất.
Tổn thất tài chính là chuyện thông thường trong giai đoạn khởi đầu này vì doanh thu nhanh chóng bị ngốn sạch bởi các chi phí phát triển sản phẩm liên tục, marketing và sản xuất.
Thách thức marketing trong giai đoạn khởi đầu là xây dựng ý thức về sản phẩm và có nhiều người dùng thử sản phẩm nhằm mục đích tạo ra sự phát triển mạnh mẽ hơn.
¯ Giai đoạn phát triển:
Một số sản phẩm trải qua giai đoạn phát triển vượt bậc. Doanh thu tăng vọt, kết thúc tình trạng thua lỗ trong giai đoạn khởi đầu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chỉ một phần nhỏ doanh thu đem lại lợi nhuận ròng. Lý do là vì lợi nhuận công ty (hay dòng sản phẩm) thu được lại phải tái đầu tư vào các khâu phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường.
Giai đoạn này bắt đầu khi doanh số tăng nhanh
Giá giữ nguyên hay bắt đầu giảm nhẹ tuỳ thuộc tốc độ tăng trưởng của cầu.
Doanh số tiếp tục tăng nhanh sẽ làm giảm đáng kể tỉ lệ Marketing/ doanh thu.
Lợi nhuận tăng do chi phí đơn vị giảm (do số lương sản xuất lớn)
Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng sẽ không giữ vững, nó sẽ bắt đầu tăng với tốc độ giảm dần.
Thách thức thị trường trong giai đoạn phát triển là chuyển từ việc xây dựng nhận thức về sản phẩm sang xây dựng thương hiệu. Vì các đối thủ cạnh tranh mới luôn bị hấp dẫn trước sự gia tăng doanh thu và lợi nhuận, nên bạn cần tập trung vào việc tối đa hóa sự phát triển của công ty. Để có thể tăng doanh thu, hãy mở rộng sản phẩm.
¯ Giai đoạn bão hòa :
Cuối cùng, hầu hết các lĩnh vực kinh doanh và chủng loại sản phẩm đều đạt đến điểm bảo hòa, thể hiện qua sự ổn định về số lượng nhà sản xuất, sự phát triển doanh thu trên đơn vị sản phẩm chững lại và tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu giảm. Trong giai đoạn bảo hòa, thị trường của người bán nhường chỗ cho thị trường của người mua. Lợi nhuận giảm khi các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau để giành thị phần. Sự thay đổi sản phẩm chỉ dừng ở mức độ cải tiến chứ không có tính đột phá. Kinh phí chủ yếu được tập trung cho việc quảng cáo và giảm giá. Công ty nào cũng cố gắng giành giật thị phần từ các doanh nghiệp khác.
Tốc độ tăng trưởng của doanh số sẽ chậm lại, và sản phẩm bước vào giai đoạn trưởng thành.
Trong giai đoạn này tốc độ tăng doanh số giảm nên ngành sẽ thừa năng lực sản xuất.
Cạnh tranh đã bị đẩy lên cực điểm, một số đối thủ yếu đã phải rút lui khỏi thị trường.
Cũng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các quyết định của sản phẩm - thực trạng quá trình phát triển của dầu gội đầu Clear Men.doc