Mục lục
1. Biến đổi khí hậu toàn cầu – Nguyễn Văn Dũng 03
2. Lắng đọng axit – Chu Anh Đại 09
3. Hiệu ứng nhà kính – Trần Minh Đức 18
4. Mối quan hệ giữa các thành phần của môi trường – Nguyễn Trường Giang 050 20
5. Suy giảm tầng ozon – Nguyễn Trường Giang 053 26
6. Mối quan hệ dân số và tài nguyên môi trường – Phạm Thế Giang 29
31 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 4599 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các vấn đề môi trường trong xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất trung gian (A-), có thể là peroxymonosulfurous acid ion, phản ứng diễn ra như sau:
HSO3- + H2O2 ---> A- + H2OA- + H+ ---> H2SO4
Đối với NOx:
- Ở pha khí: Việc tạo thành acid nitric chủ yếu nhờ vào phản ứng của gốc hydroxy, gốc này có hoạt tính cao và hiện diện nhiều trong khí quyển. Phản ứng diễn ra như sau:
HO + NO2(+M) ---> HONO2(+M)
- Ở pha lỏng: Có 3 loại phản ứng đóng vai trò tương đương nhau trong việc chuyển hóa NOx thành acid nitric
2NO2 (g) + H2O (L) ---> 2 H+ + NO3- + NO2-NO (g) + NO2 (g) + H2O (L) ---> 2H+ + 2NO2-3NO2 (g)+ H2O (L) ---> 2H+ + 2NO3- + NO (g)
Ba loại phản ứng này phụ thuộc vào áp suất riêng phần của NOx hiện diện trong khí quyển và độ hòa tan rất thấp của NOx trong nước. Các phản ứng trên có thể tăng tốc độ với sự hiện diện của các chất xúc tác kim loại như Fe3+,Mn2+.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA LẮNG ĐỌNG AXIT
A. Tác động tiêu cực
1. Ảnh hưởng của mưa acid lên thực vật và đất .
Một trong những tác hại nghiêm trọng của mưa acid là các tác hại đối với thực vật và đất. Khi có mưa acid, các dưỡng chất trong đất sẽ bị rửa trôi. Các hợp chất chứa nhôm trong đất sẽ phóng thích các ion nhôm và các ion này có thể hấp thụ bởi rễ cây và gây độc cho cây. Như chúng ta đã nói ở trên, không phải toàn bộ SO2 trong khí quyển được chuyển hóa thành acid sulfuric mà một phần của nó có thể lắng đọng trở lại mặt đất dưới dạng khí SO2. Khi khí này tiếp xúc với lá cây, nó sẽ làm tắt các thể soma của lá cây gây cản trở quá trình quang hợp.
Một thí nghiệm trên cây Vân Sam (cây lá kim) cho thấy, khi phun một hỗn hợp acid sulfuric và acid nitric có pH từ 2,5 - 4,5 lên các cây Vân Sam con sẽ làm xuất hiện và phát triển các vết tổn thương có màu nâu trên lá của nó và sau đó các lá này rụng đi, các lá mới sẽ mọc ra sau đó nhưng với một tốc độ rất chậm và quá trình quang hợp bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
2. Ảnh hưởng đến khí quyển
Các hạt sulphate, nitrate tạo thành trong khí quyển sẽ làm hạn chế tầm nhìn. Các sương mù acid làm ảnh hưởng đến khả năng lan truyền ánh sáng Mặt trời. Ở Bắc cực, nó đã ảnh hưởng đến sự phát triển của Địa y, do đó ảnh hưởng đến quần thể Tuần lộc và Nai tuyết - loại động vật ăn Địa y.
3. Ảnh hưởng đến các công trình kiến trúc
Các hạt acid khi rơi xuống nhà cửa và các bức tượng điêu khắc sẽ ăn mòn chúng. Ví dụ như tòa nhà Capitol ở Ottawa đã bị tan rã bởi hàm lượng SO2 trong không khí quá cao. Vào năm 1967, cây cầu bắc ngang sông Ohio đã sập làm chết 46 người; nguyên nhân cũng là do mưa acid.
4. Ảnh hưởng đến các vật liệu.
Mưa acid cũng làm hư vải sợi, sách và các đồ cổ quý giá. Hệ thống thông khí của các thư viện, viện bảo tàng đã đưa các hạt acid vào trong nhà và chúng tiếp xúc và phá hủy các vật liệu nói trên.
5. Ảnh hưởng của mưa acid lên ao hồ và hệ thủy sinh vật
Mưa acid ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các ao hồ và hệ thủy sinh vật. Mưa acid rơi trên mặt đất sẽ rửa trôi các chất dinh dưỡng trên mặt đất và mang các kim loại độc xuống ao hồ. Ngoài ra vào mùa xuân khi băng tan, acid (trong tuyết) và kim loại nặng trong băng theo nước vào các ao hồ và làm thay đổi đột ngột pH trong ao hồ, hiện tượng này gọi là hiện tượng "sốc" acid vào mùa Xuân. Các thủy sinh vật không đủ thời gian để thích ứng với sự thay đổi này. Thêm vào đó mùa Xuân là mùa nhiều loài đẻ trứng và một số loài khác sống trên cạn cũng đẻ trứng và ấu trùng của nó sống trong nước trong một thời gian dài, do đó các loài này bị thiệt hại nặng. Acid sulfuric có thể ảnh hưởng đến cá theo hai cách: trực tiếp và gián tiếp. Acid sulfuric ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hấp thụ oxy, muối và các dưỡng chất để sinh tồn. Đối với các loài cá nước ngọt acid sulfuric ảnh hưởng đến quá trình cân bằng muối và khoáng trong cơ thể chúng. Các phân tử acid trong nước tạo nên các nước nhầy trong mang của chúng làm ngăn cản khả năng hấp thu oxygen của các làm cho cá bị ngạt. Việc mất cân bằng muối Canxi làm giảm khả năng sinh sản của các, trứng của nó sẽ bị hỏng ... và xương sống của chúng bị yếu đi. Muối đạm cũng ảnh hưởng đến cá, khi nó bị mưa acid rửa trôi xuống ao hồ nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của tảo, tảo quang hợp sẽ sinh ra nhiều oxygen. Tuy nhiên do cá chết nhiều, việc phân hủy chúng sẽ tiêu thụ một lượng lớn oxy làm suy giảm oxy của thủy vực và làm cho cá bị ngạt.Mặc dầu nhiều loại cá có thể sống trong môi trường pH thấp đến 5,9 nhưng đến pH này Al2+ trong đất bị phóng thích vào ao hồ gây độc cho cá. Al2+ làm hỏng mang cá và tích tụ trong gan cá.
6. Ảnh hưởng lên người
Các tác hại trực tiếp của việc ô nhiễm do các chất khí acid lên người bao gồm các bệnh về đường hô hấp như: suyển, ho gà và các triệu chứng khác như nhức đầu, đau mắt, đau họng ... Các tác hại gián tiếp sinh ra do hiện tượng tích tụ sinh học các kim loại trong cơ thể con người từ các nguồn thực phẩm bị nhiễm các kim loại này do mưa acid.
B. Tác động tích cực :
1. Mưa axit làm mát trái đất:
Những cơn mưa chứa axit sulphuric làm giảm phát thải methane từ những đầm lầy, nhờ đó hạn chế hiện tượng trái đất nóng lên.
Một cuộc điều tra toàn các thành phần sunfua có trong mưa axit có khả năng ngăn cản trái đất ấm lên, bằng việc tác động vào quá trình sản xuất khí mêtan tự nhiên của vi khuẩn trong đầm lầy. Methane chiếm 27% trong các yếu tố gây nên hiệu ứng nhà kính, và các vi khuẩn ở đầm lầy là thủ phạm chính. Chúng tiêu thụ chất nền (gồm có hidro va axetat )trong than bùn rồi giải phóng khí metan, còn vi khuẩn ăn sunfua thì cạnh tranh thức ăn với chúng. Khi mưa axit đổ xuống, nhóm vi khuẩn này sẽ dùng sunfua, đồng thời tiêu thụ luôn phần đất nền đáng lý dành cho vi khuẩn sinh metan. Do vậy các cặp vi khuẩn của mêtan bị “ đói “ và sản xuất ra ít khí nhà kính.Nhiều thí nghiệm cho thấy phần sunfua lắng đọng có thể làm giảm quá trình sinh khí mêtan tới 30%.
2. Cân bằng hệ sinh thái rừng:
Sự thiếu vắng các trận mưa axit cũng có thể gây ra nhiều vấn đề về môi trường.Vì lượng cácbon dioxit ngày càng tăng trong sông suối là loại khí gây ra quá trình axit hóa các nguốn nước tinh khiểt.
III. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Như ta đãnói ở trên, những tác động của mua aicd đến môi trường cũng như con người hết sức nghiêm trọng.Mưa acid đã trở thành vấn nạn đối với con người. Vấn nạn đó không chỉ bó gọn trong từng quốc gia, từng lãnh thổ, từng khu vực, mà nó mang tính toàn cầu. Do đó, để giai quyết vấn đề trên không thể chỉ bó gọn trong từng quốc gia mà cần có sự hợp tác toàn thê các nước trên toàn thế giới. Giải quyết vấn đề mưa axit, chúngta không chỉ chú ý đến cộng nghệ xử lí cũng như khăc phục hậu quả mưa axit gây ra mà còn chú ý đến nguồn gốc gây ra mưa axit và quản lí nó.
1. Biện pháp quản lí nguồn ô nhiễm
Biện pháp quản lí tức là chúng ta quản lí nguồn gây ô nhiễm, không cho các nguôn khí này phát sinh và xả tự do vào môi trường . Để làm được điếu đó, chúng ta có thể xây dựng công ước, điều luật về môi trường trong việc xả và thải các khí trên. Công ước điều luật đó phải được áp dụng trên toàn cầu các quôc gia phải thực hiện. Hơn thế trong từng quốc gia cần có biện pháp ngăn ngừa thải các nguồn khí ô nhiễm nói trên.
Đối phạm vi toàn cầu, vấn đề đâu tiền cần xây dựng lứn sự hợp tác và tôn trọng. Hợp tác là sự quan tâm tất cả các quốc gia, không phân biệt phát triển hay không pháttriển. Hợp tác chinh là sự giúp đỡ các nước phát triển đối các nước nghèo trong việckhắc phục và xử lí hậu quả của mưa acid.Tôn trọng chính là việc thực hiện các công ướchay điều luột quốc tế về môi trường. Đó chính là công ước Kyoto, công ước Bornhaycông ước về nhiễm bẩn bầu không khí trong phạm vi rộng (LRTAP).
Ngoài ra, chúng ta có thể xây dựng điều luật về môi trường CAA như nước Mỹ đã áp dụng hay xây dựng luật thuế về việc xả thải các chất khí gây ra mưa acid ở các nước phát triển, thuế này được đánh trên giá bán nhiên liệu .
Trong từng quốc gia, ngoài việc tham gia các công ước quốc tế về môi trường thê giới mà từng quôc gia cần xây dựng điều luật riêng phù hợp với hoàn cảnh từng nước. Các nước có thể ghi sổ đen những thành phố hay địa điểm gây ô nhiễm để theo dõi và sử phạt.
Bên cạnh đó nhà nước luôn cần có chương trình giáo dục tuyên truyền người dân có ý thức trong việc bảo vệ môi trường
2. Các biện pháp công nghệ
Các khí gây ô nhiễm hay gây mưa acid khi đã phát thải vào môi trường thì chúng ta không thể làm sạch khí quyển được. Do vậy chúng ta chỉ có thể dùng biện pháp công nghệ giảm thiểu hay hấp thu các khí trên trước khi chúng xả vào bầu khí quyển.
2.1. Làm sạch anhydryt sunfurơ SO2
Phương pháp làm sạch SO2 bằng sữu vôi
Khí SO2 được thu hồi trong tháp rửa bằng sữu vôi, sữu vôi tác dụng với SO2 theo phản ứng:
SO2+Ca(OH)2 =CaSO3 + H2O
Khí chứa SO2 được dẫn vào trong tháp rửa, lượng khí này được rửa bằng dung dịch vôi sữa dưới dạng phun. Lượng vôi sữa này cần được dùng với lượng lớn tránh bị tắc trong lớp ô đệm do phản ứng CaSO3 và thạch cao CaSO4.H2O. Đối phương pháp này, có thể thay dịch vôi sữa bằng vôi bột .
CaCO3 + SO2 =CaSO3 + CO2
Phương pháp làm sạch SO2 bằng ammoniac
Sau khi làm làm sạch bụi,asen, selen trong khí, nếu còn chứa SO2 với hàm lượng nhất định thì khí được làm nguội đến nhiệt độ 35-400C sau đó rửa khí bằng dung dịch chứa (NH4)2SO3. Khi đó phản ứng trong thiết bị xảy ra:
(NH4)2SO3 + SO2 + H2O = 2NH4HSO3
Kết quả phản ứng này cho thu hồi SO2. Khi đun dung dịch nhận được là amon bisunfit đến nhiệt độ sôi, phản ứng theo chiều nghịch cho ra SO2. Khí SO2 thu được với nồng độ cao dùng để sản xuất lưu huỳnh nguyên tố, acid sunfuric và các sản phẩm khác.Chất hấp thụ trong phương pháp này được tái sử dụng thực hiện theo chu trình vòng.
Phương pháp kẽm
Khí chứa SO2 cần làm sạch khi được rửa bằng dung dịch chứa ZnO, phản ứng xảy ra như sau:
ZnO + SO2 +H2O = ZnSO3. H2O
Sản phẩm của phản ứng trên tồn tại dưới dạng rắn có thể tách ra khỏi dịch thể bằng phương pháp lọc hoặc ly tâm, sau đó đem lung đến nhiệt độ 3500C được sản phẩm H2O, SO3,ZnO. ZnO được tái sử dụng lại trong chu trình trên.
Theo phương pháp trên,chúng ta có thể dung MgO thay cho ZnO vẫn đạt hiệu quả.
2.2. Làm sạch nito oxit trong khí:
Các khí NO, NO2, trong hỗn hợp khí thải có thể làm sạch theo phương pháp hấp phụ,dịch hấp phụ dùng thường là dịch kiềm hay chỉ nước không.
3NO2 + H2O=2HNO3 + NO
Nito oxit NO sẽ bị oxy hoá trong không khí, vận tốc oxy hoá tuỳ thuộc nhiệt độ, nồngđộ NO, O2. Vì vậy phương pháp này đã hoàn lại 1/3 NO, nên sự làm sạch nito oxyt khônghoàn toàn. Phương pháp này áp dụng khi hàm lượng nito oxyt lớn hơn 1%.
Khi ta dùng dịch hấp thụ kiềm, chẳng hạn dịch chứa NaOH phản ứng hấp thụ là
2NaOH + 2NO2 = NaNO3 + NaNO2 +H2O
Để làm sạch nito oxyt, khí chứa nito oxyt được rửa bằng dịch các chất oxy hoá như KBrO3, KMnO4, H2O2. để tạo hiệu suất cao hơn.
2.3.Phương pháp sinh học khắc phục hậu quả mưa acid
Tuy nhiên,một phươn pháp để khắc phục hậu quả mưa acid bằng phương pháp sinh học.Theo phưong pháp này chunngs ta dùngmột loại vi khuẩn để bảo vệ các công trình kiếntrúc,vật liệu hay các tác phẩm điêu khắc khỏi sự ăn mòn của mưa acid. Loại vi khuẩndùng đó là Myxococcus xanthus . Với loại vi khuẩn này, khi được quét hay phun cácdung dịch chứa loại vi khuẩn trên lên các bề mặt vật liệu bằng đá nó sẽ xâm nhậpvào đávôi với độ sâu 0,5mm. Chúng tạo nên một lớp carbonate hay ''vữa sinh học'' bền hơnchính đá vôi và chịu được mưa acid ( theo nghiên cứu của Rodriguez-Navarro và đồng nghiệp thuộc ĐH Granada, Tây Ban Nha ). Đây là một phwong pháp khá đơn giản mà lạihiệu quả mà chúng ta có thể nhân rộng và sử dụng .
IV. KẾT LUẬN
Mưa acid hiện nay đang là vấn đề nổi cộm trên thế giới.
Mưa acid không phải là mộtvấn đề riêng của một quốc gia nào đó mà nó là vấn đề chung của nhân loại - vấn đề ô nhiễm môi trường ô nhiễm bầu không khí. Do đó để giải quyết, khắc phục vấn đề mưa acid cần có sự hợp tác nhiều quốc gia trên thế giới nhất là những nước phát triển. Màviệc đầu tiên chính là các nước này cần tôn trọng và thực hiện những yêu cầu trong các công ước về bảo vệ môi trường, phát thải các khí gây ô nhiễm . Các nước nghèo, song song việc phát triển kinh tế là công tác bảo vệ môi trường. Trong từng nước cần áp dụngcác thiết chế và cả kinh tế trong các vấn đề về gây ô nhiễm. Công tác tuyên truyền và giáo dục về bảo vệ môi trường đến từng người dân cần được coi trọng và làm thường xuyên . Đối các cơ sở sản xuất công nghiệp luôn luôn được kiểm tra giám sát về việc xả thải các khí gây ô nhiễm . Hơn thế nữa, mỗi công dân chúng ta luôn phải có ý thức trong việc bảo vệ môi trường .
HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH
I. Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính diễn ra khi khí quyển chứa khí đã hấp thụ tia cực quang. Khi hơi nóng từ mặt trời vô Trái Đất đã bị giữ lại ở tầng đối lưu, tạo ra hiệu ứng nhà kính ở bề mặt các hành tinh hoặc các Vệ tinh. Cơ cấu hoạt động này không khác nhiều so với một nhà kính (dùng để cho cây trồng) thiệt, điều khác biệt là nhà kính (cây trồng) có các cơ cấu cách biệt hơi nóng bên trong để giữ ấm không phải qua quá trình đối lưu.
Hiệu ứng nhà kính được khám phá bởi nhà khoa học Joseph Fourier vào năm 1824, thí nghiệm đầu tiên có thể tin cậy được là bởi nhà khoa học John Tyndall vào năm 1858, và bản báo cáo định lượng kĩ càng được thực hiện bởi nhà khoa học Svante Arrhenius vào năm 1896.Một ví dụ về Hiệu ứng nhà kính làm cho nhiệt độ của không gian bên trong của một nhà trồng cây làm bằng kính tăng lên khi Mặt Trời chiếu vào. Nhờ vào sức ấm này mà cây có thể đâm chồi, ra hoa và kết trái sớm hơn. Ngày nay người ta hiểu khái niệm này rộng hơn, dẫn xuất từ khái niệm này để miêu tả hiện tượng nghẽn nhiệt trong bầu khí quyển của Trái Đất được Mặt Trời chiếu sáng là hiệu ứng nhà kính khí quyển. Trong hiệu ứng nhà kính khí quyển, phần được đoán là do tác động của loài người gây ra được gọi là hiệu ứng nhà kính nhân loại (gia tăng). Hiện này thế kỷ thứ 21 loài người đang phải đối mặt với tình trạng ấm lên do con người gây ra, tuy nhiên vấn đề vẫn đang được tranh cãi, gây ra nhiều tác hại nguy hiểm.
Các vật đen có nhiệt độ từ trái đất khoảng 5.5 °C. Từ khi bề mật trái đất phản lại khoảng 28% ánh sáng mặt trời[6], nếu không có hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ có thể rất thấp khoảng -18 hoặc -19 °C [7][8] thay vì nhiệt độ có thể cao hơn là khoảng 14 °C.
II. Hiệu ứng nhà kính khí quyển
Các tia bức xạ sóng ngắn của mặt trời xuyên qua bầu khí quyển đến mặt đất và được phản xạ trở lại thành các bức xạ nhiệt sóng dài. Một số phân tử trong bầu khí quyển, trong đó trước hết là [điôxít cacbon] và hơi [nước], có thể hấp thụ những bức xạ nhiệt này và thông qua đó giữ hơi ấm lại trong bầu khí quyển. Hàm lượng ngày nay của khí đioxit cacbon vào khoảng 0,036% đã đủ để tăng nhiệt độ thêm khoảng 30 °C. Nếu không có hiệu ứng nhà kính tự nhiên này nhiệt độ trái đất của chúng ta chỉ vào khoảng –15 °C.
Có thể hiểu một cách ngắn gọn như sau : ta biết nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi cân bằng giữa năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và lượng bức xạ nhiệt của mặt đất vào vũ trụ. Bức xạ nhiệt của mặt trời là bức xạ có sóng ngắn nên dễ dàng xuyên qua tầng ozon và lớp khí CO2 để đi tới mặt đất, ngược lại bức xạ nhiệt từ trái đất vào vũ trụ là bức sóng dài, không có khả năng xuyên qua lớp khí CO2 dày và bị CO2 + hơi nước trong khí quyên hấp thụ. Như vậy lượng nhiệt này làm cho nhiệt độ bầu khí quyển bao quanh trái đất tăng lên. Lớp khí CO2 có tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa ngược vào vũ trụ của trái đất trên quy mô toàn cầu. Bên cạnh CO2 còn có một số khí khác cũng được gọi chung là khí nhà kính như NOx, Metan, CFC.
Ở thời kỳ đầu tiên của lịch sử trái đất, các điều kiện tạo ra cuộc sống chỉ có thể xuất hiện vì thành phần của điôxít cacbon trong bầu khí quyển nguyên thủy cao hơn, cân bằng lại lượng bức xạ của mặt trời lúc đó yếu hơn đến khoảng 25%. Cường độ của các tia bức xạ tăng lên với thời gian. Trong khi đó đã có đủ cây cỏ trên Trái Đất, thông qua sự quang hợp, lấy đi một phần khí điôxít cacbon trong không khí tạo nên các điều kiện khí hậu tương đối ổn định.
III. Hiệu ứng nhà kính nhân loại
Từ khoảng 100 năm nay con người tác động mạnh vào sự cân bằng nhạy cảm này giữa hiệu ứng nhà kính tự nhiên và tia bức xạ của mặt trời. Sự thay đổi nồng độ của các khí nhà kính trong vòng 100 năm lại đây (điôxít cacbon tăng 20%, mêtan tăng 90%) đã làm tăng nhiệt độ lên 2 °C.
Không nên nhầm lẫn hiệu ứng nhà kính nhân loại với việc làm tổn thất đến lớp khí ôzôn ở tầng bình lưu cũng do loài người gây ra.
IV. Những ảnh hưởng có thể xảy ra do hiệu ứng nhà kính nhân loại
Phần lớn các nhà khoa học ủng hộ giả thuyết cho rằng việc tăng nồng độ các khí nhà kính do loài người gây ra, hiệu ứng nhà kính nhân loại, sẽ làm tăng nhiệt độ trên toàn cầu (sự nóng lên của khí hậu toàn cầu) và như vậy sẽ làm thay đổi khí hậu trong các thập kỷ và thập niên kế đến.
Giả thuyết này bị phủ nhận bởi một số người gọi là nhà phê bình khí hậu mà con số các nhà khoa học trong họ đã giảm đi rõ rệt trong những năm vừa qua.
Sau đây là một số hậu quả liên đới với việc thay đổi khí hậu do hiệu ứng này có thể gây ra:
Các nguồn nước: Chất lượng và số lượng của nước uống, nước tưới tiêu, nước cho kỹ nghệ và cho các máy phát điện, và sức khỏe của các loài thủy sản có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự thay đổi của các trận mưa rào và bởi sự tăng khí bốc hơi. Mưa tăng có thể gây lụt lội thường xuyên hơn. Khí hậu thay đổi có thể làm đầy các lòng chảo nối với sông ngòi trên thế giới.
Các tài nguyên bờ biển: Chỉ tại riêng Hoa Kỳ, mực nước biển dự đoán tăng 50 cm vào năm 2100, có thể làm mất đi 5.000 dặm vuông đất khô ráo và 4.000 dặm vuông đất ướt.
Sức khỏe: Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kì dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm.
Nhiệt độ tăng lên làm tăng các quá trình chuyển hóa sinh học cũng như hóa học trong cơ thể sống, gây nên sự mất cân bằng.
Lâm nghiệp: Nhiệt độ cao hơn tạo điều kiện cho nạn cháy rừng dễ xảy ra hơn.
Năng lượng và vận chuyển: Nhiệt độ ấm hơn tăng nhu cầu làm lạnh và giảm nhu cầu làm nóng. Sẽ có ít sự hư hại do vận chuyển trong mùa đông hơn, nhưng vận chuyển đường thủy có thể bị ảnh hưởng bởi số trận lụt tăng hay bởi sự giảm mực nước sông.
• Những khối băng ở Bắc cực và nam cực đang tan nhanh trong những năm gần đây và do đó mực nước biển sẽ tăng quá cao, có thể dẫn đến nạn hồng thủy.
V. Các nỗ lực hiện tại để giảm trừ Hiệu ứng nhà kính nhân loại
Một trong những cố gắng đầu tiên của nhân loại để giảm mức độ ấm dần do khí thải kỹ nghệ là việc các quốc gia đã tham gia bàn thảo và tìm cách kí kết một hiệp ước có tên là Nghị định thư Kyoto. Tuy nhiên, hiệp ước này không được một số nước công nhận, trong đó quan trọng nhất là Mỹ với lí do là hiệp định này có khả năng gây tổn hại cho sự phát triển kinh tế của Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Roderic Jones thuộc Trung tâm Khoa học Khí quyển, phân khoa hóa của Đại học Cambridge đã phát biểu: Tôi không muốn làm mọi người lo sợ nhưng cùng lúc tôi nghĩ rằng thật là quan trọng nếu họ hiểu được tình hình và, một cách tối yếu, sự cần thiết phải làm gì đó cho nó. Nghị định thư Kyoto rất quan trọng, mặc dù vậy, theo (nội dung) đề cập, nó không đủ để cân bằng hóa CO2.
Tuy nhiên, về phía nội bộ nước Mỹ và các nước tiên tiến khác, nhiều nỗ lực để giảm khí độc mà chủ yếu thải ra từ xe máy nổ và các nhà máy kỹ nghệ đã được áp dụng khá mạnh mẽ. Ở Hoa Kỳ, hầu hết các tiểu bang đều có luật bắt buộc các phương tiện giao thông dùng động cơ nổ phải có giấy chứng nhận qua được các thử nghiệm định kì về việc đạt tiêu chuẩn nhả khói của hệ thống xe.
Trồng nhiều cây xanh (nhất là những loại cây hấp thụ nhiều CO2 trong quá trình quang hợp) nhằm làm giảm lượng khí CO2 trong bầu khí quyển, từ đó làm giảm hiệu ứng nhà kính khí quyển.
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ
GIỮA CÁC THÀNH PHẦN MÔI TRƯỜNG
I - ĐỊA QUYỂN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG.1. Khái niêm:
- Địa quyển là lớp vỏ trái đất dày từ 0-70km. Vỏ của địa quyển là lớp tổng hợp của đất, sinh quyển, không khí…
2. Các nhân tố hình thành đất.-Đất là vật thể tự nhiên được hình thành do tác động đồng thời của các nhân tố sau đây:2.1. Đá mẹ- Mọi loại đất đều được thành tạo từ những sản phẩm phá huỷ của đá gốc (nham thạch). Những sản phẩm phá huỷ đó được gọi là đá mẹ.- Đá mẹ là nguồn cung cấp vật chất vô cơ cho đất, do đó quyết định thành phần khoáng vật, thành phần cơ giới và ảnh hưởng trực tiếp tới các tính chất lí, hoá của đất.2.2. Khí hậu- Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành đất là nhiệt và ẩm. Tác động của nhiệt và ẩm làm cho đá bị phá huỷ thành những sản phẩm phong hoá. Những sản phẩm này sẽ tiếp tục bị phong hoá thành đất. Nhiệt và ẩm còn ảnh hưởng tới sự hoà tan, rửa trôi hoặc tích tụ vật chất trong các tầng đất, đồng thời tạo môi trường để vi sinh vật phân giải và tổng hợp chất hữu cơ cho đất.2.3. Sinh vật- Sinh vật có vai trò chủ đạo trong việc hình thành đất: thực vật cung cấp xác vật chất hữu cơ (cành khô, lá rụng…) cho đất, rễ thực vật bám vào các khe nứt của đá làm phá huỷ đá. Vi sinh vật phân giải xác vật chất hữu cơ và tổng hợp thành mùn - Vật chất hữu cơ chủ yếu của đất. Động vật sống trong đất như giun, kiến, mối… cũng góp phần làm thay đổi một số tính chất vật lí, hoá học của đất.2.4. Địa hình-Ở vùng núi cao, do nhiệt độ thấp nên quá trình phong hoá xảy ra chậm, quá trình hình thành đất yếu. Địa hình dốc làm cho quá trình xâm thực, xói mòn mạnh, đặc biệt khi lớp phủ thực vật bị phá huỷ, nền tầng đất thường mỏng và bị bạc màu. Ở nơi bằng phẳng, quá trình bồi tụ chiếm ưu thế, tầng đất dày và giàu chất dinh dưỡng hơn. Các hướng sườn khác nhau sẽ nhận được lượng nhiệt, ẩm khác nhau, vì thế sự phát triển của lớp phủ thực vật cũng khác nhau, ảnh hưởng gián tiếp tới sự hình thành đất.5. Thời gian- Toàn bộ các hiện tượng xảy ra trong quá trình hình thành đất như quá trình phong hoá đá, quá trình di chuyển vật chất trong đất, quá trình hình thành vật chất hữu cơ… đều cần có thời gian.- Thời gian từ khi bắt đầu hình thành một loại đất đến nay gọi là tuổi của đất. Đất có tuổi già nhất là đất ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới, vì quá trình hình thành chúng không bị gián đoạn. Các loại đất trẻ nhất là đất ở miền cực và đất ở miền ôn đới, chúng mới được hình thành sau thời kỳ băng hà Đệ Tứ, cách đây chưa đến 1,5 triệu năm.6. Con người.
I. THỦY QUYẾN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG.
1. Khái niệm:
- Thủy quyển là lớp nước tồn tại ở đại dương, sông hồ băng tuyết, nước ngầm…..
- Thủy quyển của Trái đất nằm giữa khí quyển và địa quyển. Nó gồm có biển, hồ, sông, đầm, nước ngầm, lạch suối (dưới dạng chất lỏng) và băng hà (dưới dạng chất rắn). Theo ước tính của các nhà khoa học, tổng lượng nước trên bề mặt Trái đất vào khoảng 1,4 tỷ km3, trong đó biển chiếm 97,3% nước dưới dạng băng hà ở trên mặt đất chiếm 2,7%. Nước trong khí quyển so với 2 loại trên quá nhỏ không đáng kể.
- Diện tích biển chiếm 71% bề mặt Trái đất. Nếu lấy nước biển phủ đều trên mặt đất, mặt đất sẽ có một lớp thủy quyển dày 2.700m. Nhưng khoảng 4-5 tỷ năm về trước, khi Trái đất vừa mới ra đời, bề mặt của nó không hề có giọt nước nào, không có cả một sự sống. Về sau Trái đất nguội dần đi, hơi nước trong khí quyển mới đọng lại thành nước, mưa xuống chảy vào chỗ trũng, lâu ngày tích lại, dần trở thành hồ và biển nguyên thủy. Những chất sống đầu tiên nảy mầm trong biển, đó là hồ nguyên thủy.
2. Các yếu tố ảnh hưởng.
Sự vận động tuần hoàn của Thủy quyển (Ảnh: cmmacs)
Dưới ánh nắng Mặt trời, thủy quyển của Trái đất không ngừng vận động tuần hoàn. Nước ở trên mặt đất bốc hơi thành hơi nước trong khí quyển, hơi nước trong khí quyển với một điều kiện thích hợp nào đó ngưng đọng lại thành nước mưa rơi xuống mặt đất và biển. Nước trên mặt đất hội tụ lại thành suối, thành sông chảy ra hồ, ra biển hoặc thấm xuống đất, qua các khe nứt của các nham thạch trở thành nước ngầm, hoặc trực tiếp bốc hơi trở lại khí quyển. Trong quá trình tuần hoàn nước, khí quyển là công cụ vận chuyển chủ yếu của nước. Nhờ có tuần hoàn nước trên Trái đất với quy mô lớn, không ngừng không nghỉ nên mới làm cho mặt đất biến đổi thường xuyên, vạn vật sinh sôi nảy nở.Thủy quyển và khí quyển là 2 quyển thường gắn liền với nhau, và có quan hệ tương hỗ, các điều kiện khí áp, sự tịch tụ hơi nước gây mưa ở khí quyển góp phần tạo nên sự phân bố nước ( thủy quyển ) ở bề mắt trái đất, ngược lại chính thủy quyển cung cấp hơi nước, làm thay đổi tính chất của khí quyển, những dòng biển nóng, lạnh, hay những khu vực gần hồ, gần biển cũng có sự trao đổi nhiệt ẩm giữa thủy quyển và khí quyển làm thay đổi khí hậu từng khu vực đóThủy quyển và địa quyển cũng có mối quan hệ tương tự, thủy quyển chính là yếu tố phong hóa, bào mòn đá gốc, và cũng chính thủy quyển đóng vai trò vận chuyển bồi tích tạo nên các khu vực trầm tích, hình thành nên đá trầm tích. Ngoài ra đá gốc (thạch quyển) còn quyết định tới địa hình tạo nên các dạng phân bố của thủy quyển, các lớp thạch quyển có thể ảnh hưởng đến tầng nước ngầm ở vỏ phong hóa
Tất cả các quyển đều có quan hệ hết sức mật thiết với nhau. III– SINH QUYỂN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG.1. Khái niệm Sinh quyển là một quyển của Trái Đất, trong đó có toàn bộ sinh vật sinh sống. Chiều dày của sinh quyển tuỳ thuộc vào giới hạn phân bố của sinh vật:- Giới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Biến đổi khí hậu và các biện pháp khắc phục.doc