Tiểu luận Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước theo hướng Cổ phần hoa ở nước ta hiện nay

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN Ở NƯỚC TA 2

I. Công ty cổ phần - một hình thức tổ chức kinh doanh 2

1. Công ty cổ phần là sản phẩm của sự phát triển KTTT 2

2. Đặc điểm của các Công ty cổ phần 3

3. Vai trò của Công ty cổ phần 6

II. Cổ phần hóa DNNN ở nước ta - sự lựa chọn 9

CHƯƠNG II: DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA

I. Thực trạng DNNN ở Việt Nam trong bước chuyển sang kinh tế thị trường 10

II. Tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam 14

1. Quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam còn chậm 14

2. Nguyên nhân CPH chậm ở Việt Nam trong những năm gần đây 14

III. Các yếu tố tác động quá trình CPH DNNN ở nước ta hiện nay 15

1. Thuận lợi 15

2. Khó khăn 16

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ THÚC ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI 17

I. Những quan điểm cơ bản cần quán triệt trong cổ phần hóa 17

II. Giải pháp 21

KẾT LUẬN 23

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 24

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước theo hướng Cổ phần hoa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a thị trường chứng khoán ,sự di chuyển của các cổ phiếu với tư cách là hàng hóa vốn đầu tư ,công chúng (là các cổ đông ) đã “bỏ phiếu tín nhiệm “ cho những ngành những lĩnh vực , những công ty mà họ cho là có triển vọng . Cơ chế này giúp cho người đầu tư phân tán được nguồn vốn của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau để giảm rủi ro trong kinh doanh Vậy là sự tham gia có tính chất xã hội của công chúng vào quan hệ sở hữu và quá trình quản lý , lựa chọn cơ cấu nghành …đã trở thành những gợi ý thiết thực cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô. Có thể nói về mặt pháp lý hình thức cổ phần có tư cách hoàn hảo nhất so với các hình thức trước để chia sẻ các rủi ro của đời sống kinh doanh, không có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty thì đều đơn giản là một nền kinh tế thị trường không thể nào thu hái lợi ích có được khi những lượng tư bản lớn cần được thu hút vào những công ty với quy mô có hiệu quả , sản xuất ra nhiều loại sản phẩm bổ sung cho nhau , chia sẻ những rủi ro và sử dụng tốt nhất kinh tế của những đơn vị nghiên cứu lớn và kiến thức quản lý. Xét về mặt huy động vốn: công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành công ,với phần đông dân chúng thì họ không đủ để thành lập một công ty riêng , do đó không thể tự kinh doanh được. Nhưng với cách mua cổ phiếu để trở thành cổ đông của cùng một lúc nhiều công ty thì họ có thể làm được. Các công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ có cơ hội để đầu tư một cách có lợi và an toàn với những khoản vốn nhỏ. Họ có thể gửi tiết kiệm hoặc mua trái phiễu của ngân hàng , song tham gia vào công ty cổ phần có sức hấp dẫn và hứa hẹn hơn: - Thứ nhất: mua cổ phiếu của công ty cổ phần ngoài việc hưởng lợi tức cổ phần ( thường cao hơn lãi suất ngân hàng) họ còn hy vọng khoản thu nhập ngầm nhờ việc gia tăng giá trị cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. - Thứ hai: các cổ đông có quyền tham gia quản lý theo điều lệ công ty và được pháp luật đảm bảo , do đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể hơn - Thứ ba: cổ đông có quyền được ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi được đem bán rộng rãi cho công chúng. Vì vậy công ty cổ phần có sức thu hút vốn đầu tư rộng rãi trong công chúng. Tính xã hội hoá sở hữu của công ty cổ phần vượt trội hơn các hình thức khác là ở chỗ đó. Hình thái công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu ra khỏi quá trình kinh doanh ,tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng. Nói cách khác công ty cổ phần tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của một bên là đông đảo quần chúng, còn bên kia là tầng lớp các nhà quản trị, quản lý kinh doanh chuyên nghiệp được tự do sử dụng nguồn tư bản xã hội lớn cho những mục đích, qui mô kinh doanh của công ty. Những người góp vốn trong công ty cổ phần không trực tiếp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác cho một bộ máy quản lý của công ty ( hội đồng quản trị, ban giám đốc ). Bản thân công ty cũng được pháp luật thừa nhận là một pháp nhân độc lập tách rời các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó công ty cổ phần tiến hành mọi hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính và nhận trách nhiệm với các cam kết tài chính chung của công ty. Cơ cấu tổ chức giản đơn của công ty cổ phần là đại hội cổ đông ( là tổ chức đại diện quyền sở hưũ tối cao của công ty , có trách nhiệm và bãi nhiệm hội đồng quản trị , ban giám đốc ) Bản thân công ty cũng được pháp luật thừa nhân là một pháp nhân độc lập tách rời các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó .Nhờ đó công ty cổ phần tiến hành mọi hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của nó .Nhờ đó công ty cổ phần tiến hành mọi hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính mình và nhận trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty. Cơ cấu tổ chức đơn giản đơn của công ty cổ phần hoá là đại hội cổ đông ( là tổ chức đại diện quyền tổ chức tố cáo của công ty , có trách nhiệm lựu chọn và bãi miễn hội đồng quản trị , sửa chữa điều lệ công ty , phân chia lợi nhuận cổ phần , phát hành thêm trái phiếu hoặc hợp nhất các công ty khác …) Hội đồng quản trị có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn đầu tư của cổ đông , hoạch định chiến lược tài chính và đầu tư , kinh doanh của công ty , trong đó đại diên quyền lực và trách nhiệm là ban giám đốc đIều hành ) Ban kiểm soát (thực hiện việc kiểm tra ,giám sát hoạt động của các công ty để bảo đảm lợi ích người góp vốn ) Với hệ thống tổ chức như vậy ,công ty cổ phần phát triển với quy mô khổng lồ , hình thành các công ty quốc gia , xuyên quốc gia .Sự phân chia rạch ròi chức năng sở hữu , phân phối và điều hành quản lý trong công ty cổ phần , góp phần to lớn vào hiệu quả hoạt động của công ty , bởi đội ngũ các nhà quản lý tài năng sáng tạo , chuyên nghiệp được “mặc sức vẫy vùng “ trong lĩnh vực kinh doanh của mình mà không bị sức ép , sự gò bó của người sở hữu chi phối họ hoạt động theo điều lệ công ty. 3. Vai trò của công ty cổ phần - Thứ nhất công ty cổ phần thông qua thị trường chứng khoán có khả năng tập trung vốn nhanh và nhiều để đủ sức thực hiên các hoạt động sản xuất kinh doanh với qui mô khổng lồ mà từng nhà khing doanh riêng biệt không thể làm nổi .Tất nhiên không chỉ các công ty cổ phần mới có khả năng hoạt động và tập trung vốn mà có thể thông qua hệ thống ngân hàng , tàI chính nhưng công ty cổ phần là cơ sở kinh tế chủ yếu cho ngân hàng và các tổ chức tàI chính hìng thành thị trưòng vốn của nền kinh tế . - Thứ hai :công ty cổ phần góp phần nâng cao sản xuất kinh doanh do chính công ty quyết định .Hơn nữa do hình thức tự cấp phát tàI chính bắng huy động các nguồn vốn trong dân cư đã đề cao trachs nhiêm của công ty và nâng cao sự quan tâm của công ty đến hiệu quả sử dụng tiền vốn .Mặt khác do sức ép của cổ đông trong việc đòi chia lãi cổ phần và muốn duy trì giá cổ phiếu cao trên thị trường chứng khoán khiến cho công typhảI phấn đáu và muốn duy trỳ giá cổ phiếu cao trên thị trường chứng khoán khiến cho công ty phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng tiền vốn . + Do lợi nhuận các công ty cổ phần khác nhau traong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy , nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn rỗi từ nhiều kênh khác nhau trong xã hội vào các lĩnh vực , vào các nghành có năng suất lao động và tỷ suất lợi nhuận cao,làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu quả trong nền kinh tế . + Công ty cổ phần cho phép xác nhận quyền sở hữu về tàI sản của người sở hữu và xác định số vốn của những mỗi thành viên thông qua số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ .Theo cơ chế quản lý tài chính của các DNNN trước đây thì trách nhiệm và quyền hạn đối với số vốn ( tài sản) của doanh nghiệp không ràng với mọi thua lỗ của doanh ngiệp nhà nước phải gánh chịu. Cách quản lý tổ chức kinh doanh theo kiểu hình thức cổ phần khắc phục được nhược điểm này và thực chất đã tách được quyền sở hữu ra khỏi quyền quản lý kinh doanh .ĐIều đó cho phép người giám đốc chủ động linh hoạt tìm kiếm và thực thi các giảI pháp kinh doanh có lợi nhất đối với công ty mình . - Thứ ba : công ty cổ phần có khả năng phối hợp các lực lượng kinh tế khác nhau ,duy trì được mối liên hệ giữa các thành viên .Các thành viên này cùng tồn tại và phát huy được những thế mạnh riêng , do đó làm giảm đến mức thấp nhất sự ngưng trệ của các nguồn vốn và sự đổ vỡ , gián đoạn của các hoạt động kinh doanh . - Thứ tư : công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư đầu tư nước ngoài .Đối với các nước đang phát triển , đặc biệt là nước ta hiên nay thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho sự nghiệp phát triển kinh tế là hết sức cần thiết .Thông qua hình thức liên doanh góp vốn cổ phần vào các công ty cổ phần sẽ giúp cho các công ty cổ phần sẽ giúp cho các nước phát huy được sức mạnh về mọi mặt như vốn tiềm lực công nghệ kỹ thuật , năng lực quản lý … góp phần nâng cao hiệu quả và phát triển kinh tế chung của đất nước . Trong lịch sử, loại hình CTCP có thể được hình thành bằng những con đường khác nhau : thành lập mới một CTCP hoặc chuyển đổi ( tức là CPH ) các loại hình doanh nghiệp khác thành CTCP khác với hình thức thành lập mới từ đầu , CTCP mới , hình thức CPH 1 doanh nghiệp cũ đang hoạt động liên quan tới việc đánh giá và lựa chọn lại loài hình tổ chức đã và đang là 1 khuynh hướng mạnh mẽ của cảI cách kinh tế nhằm có được những ưu thế của CTCP II. CPH DNNN ở Việt Nam – sự lựa chọn tất yếu Qua nghiên cứu mô hình CTCP và xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân SXKD kém hiệu quả của DNNN , để đáp ứng nhứng yêu cầu, vững chắc trên cơ sở phát huy sức mạnh từ nội lực nền kinh tế thì việc CPH 1 bộ phận DNNN là 1 tất yếu khách quan . Cụ thể : - Thứ nhất , CPH 1 bộ phận DNNN là 1 giải pháp để nhà nước giảm gánh nặng đối với các doanh nghiệp này , đồng thời nhà nước cũng có 1 khoản thu khá lớn để có thể tập trung đầu tư vốn , đổi mới kỹ thuật , công nghệ , đổi mới quản lý các DNNN còn lại để chúng có thể đứng vững và cạnh tranh trên thị trường , đảm bảo điều kiện để nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng và hiệu quả của mình. - Thứ hai , CPH DNNN tạo ra 1 loạt những doanh nghiệp mới , đó là 1 mô hình quản lý kinh doanh có hiệu quả nhất . Một mặt , nó huy động mọi nguồn vốn trong xã hội đưa vào SXKD , khai thác và phát huy tối đa và có hiệu quả nội lực nền KT- XH . Mặt khác , nó là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư của nước ngoài , tạo điều kiện để mọi thành viên trong công ty trở thành người chủ thực sự , phát huy được đầy đủ và tối đa tính năng , sáng tạo của họ , học tập được nhiều kinh nghiệm quản lý quý báu từ nước ngoài , góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cũng là con đường để đưa kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển một cách ổn định và vững chắc. CHƯƠNG II - Doanh nghiệp nhà nước và thực trạng cổ phần hoá I. Thực trạng DNNN ở Việt Nam trong bước chuyển sang kinh tế thị trường DNNN là một bộ phận quan trọng , cấu thành của khu vực kinh tế nhà nước ,vì thế vai trò chủ đạo của thành kinh tế này phụ thuộc nhiều vào hiệu quả kinh tế xã hội mà DNNN mang lại .Nước ta cũng giống như Các nước XHCN trước đây , thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung , lấy việc mở rộng và phát triển các DNNN làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH , nên đã chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế và dựa trên cơ sở nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước ,tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước song cũng giống như nhiều nước trên thế giới , các DNNN hoạt động hết sức kém hiệu quả , ngày càng bộc lộ những điểm yếu , đặc biệt là ở cấp địa phương quản lý. - Tỷ trọng tiêu hao vật chất :Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp hai lần so với kinh tế tư nhân . Mức tiêu hao vật chất của các DNNN trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới . VD : Chi phí vật chất của sản phẩm hoá chất bằng 1,88 lần , sản phẩm cơ khí bằng 1,3 – 1,8 lần , phân đạm bằng 2,35 lần .Mức tiêu hao năng lượng của các DNNN ở nước ta cũng cao hơn so với mức trung bình của thế giới . VD : Trong sản xuất giầy gấp 1,26 lần , hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần , than bằng 1,75 lần , phân đạm bằng 1,83 lần … - Chất lượng sản phẩm của nhiều DNNN rất thấp và không ổn đinh Trung bình trong khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khâủ ; 65% số sản phẩm đạt mức độ dưới trung bình để tiêu dùng nội địa ;20% số sản phẩm kém chất lượng . Do đó , hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội . - Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp VD : hệ số sinh lời của vốn lưu động mang tính chất chung chỉ đạo 7% /năm , trong đó ngành giao thông vận tảI đạt 2% / năm , ngành công nghiệp khoảng 3%/năm , nghành thương nghiệp 22%/năm … Hệ số sinh lời của vốn lưu động đạt 11%/năm trong đó các ngành tương ứng ở trên đạt 9,4% ; 10,6% và 9,5% . - Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước hết sức thấp . Cụ thể là trong mấy năm gần đây , hàng năm nhà nước dành hơn 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các DNNN , tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được từ 34%-35% tổng sản phẩm xã hội .Hơn nữa khu vực kinh tế nhà nước lạI sử dụng hầu hết các lao động có trình độ đạI học , công nhân kỹ thuật , phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mạI quốc doanh . - Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn : Theo số liệu của tổng cục thống kê năm 1990 trong số 12084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ , chiếm hơn 30% tổng số các doanh nghiệp nhà nước .Trong đó , quốc doanh trung ương kinh doanh thua lỗ có tới 501 cơ sở thua lỗ bằng 26,6 % số cơ sở do TW quản lý , quốc doanh địa phương có 4.083 cơ sở thua lỗ chiếm 39,9% số đơn vị do địa phương quản lý .Các đơn vị thua lỗ trên đây có giá trị tàI sản cố định bằng 38% tổng giá trị tàI sản của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước .Các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các DNNN đã gây tổn thất cho cho ngân sách nhà nước và là một nguyên nhân gây bội chi ngân sách nhà nước triền miên trong những năm qua . Thêm vào đó nhà nước lại có hàng loạt chính sách bù giá , bù lương bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho các khoản vay nợ của nhà nước ngày càng nặng nề và trầm trọng. Chỉ tính trong giai đoạn 1985-1990 , tỷ lệ thâm hụt ngân sách thường xuyên ở trên mức 30% - Từ năm 1989 đến nay , nền kinh tế thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường . Các chính sách về kinh tế , tài chính đối với doanh nghiệp nhà nuớc đã được thay đổi theo hướng tự do hoá giá cả .Chi phí ngân sách nhà nước đã bù lỗ , bù giá , bổ sung vốn lưu động cho khu vực này đã giảm đáng kể . Tuy nhiên , tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn nặng nề . Tất cả các doanh nghiệp đưẹc thành lập đều được bao cấp toàn bộ số vốn từ ngân sách nhà nước .Hàng năm trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được được dành cho các DNNN vay . Tài sản tiền vốn của nhà nước giao cho doanh nghiệp chủ yếu là không được bảo tồn và phát triển . Theo báo cáo của tổng cục thống kê , hầu hết các DNNN mới chỉ bảo tồn được vốn lưu động , còn vốn cố định thì mới chỉ bảo tồn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát .Hai nghành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp (72,52%) lạI là hai nghành có tỉ lệ thất thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%) .Vấn đề nợ nần , vòng vo , mất khả năngthanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng quản lý của nhà nước về tài chính đối với các doanh nghiệp chậm được đổi mới , đồng thời có nạn tham nhũng lãng phí diến ra ở mức bấo động. * Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của các DNNN. - Các DNNN được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dàI hàng chục năm , vốn do nhà nước cấp phát .Các DNNN chỉ đơn thuần là một đơn vị “gia công” cho nhà nước , thiếu quyền tự chủ , không có thính năng động , táo bạo trong sản xuất kinh doanh . - Các DNNN đã từ lâu không được đặt trong môi trường cạnh tranh , không gắn với cơ chế thỉ trường do đó chậm đổi mới công nghệ và nâng cao chất lương sản phẩm . - Tổ chức bộ máy trong các DNNN cồng kềnh , không có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu và quyền quản lý .Tình trang làm chủ tập thể chung chung và kéo dài mà thực chất là vô chủ phổ biến ở hầu hết cac DNNN. - Việc phân phối thực chất không dựa trên nguyên tắc phân phối lao động mà chủ yếu nhằm phục vụ chính sách xã hội, mang nặng tính quân chủ nghĩa . II. Tiến trình cổ phần hoá DNVN ở Việt Nam 1. Quá trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam còn chậm Tiến trình : Quá trình thực hiện đIểm chuyển một số doanh nghiêp nhà nước thành công ty cổ phần theo quyết định số 202/CP ngày 22/8/1996 cả nước đã chuyển được năm DNNN thành công ty cổ phần trong đó bộ giao thông vận tải có một đơn vị là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển là đơn vị được tiến hành và hoàn thành đầu tiên của cả nước (7/1993) .Rút kinh nghiệm từ việc chỉ đạo thí điểm , và phản ánh của các bộ nghành thủ tướng chính phủ đã ban hành nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định số 25CP ngày 26/3 sửa đổi , bổ sung nghị định 28/CP thì đến nay đã có rất nhiều công ty được cổ phần hoá .Bộ GTVT có 5 DNNN thực hiện cổ phần hoá .Ngoài công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển có công ty cổ phần đã tổng hợp đá Đồng Giao hoạt động theo luât công ty tháng 2/1997 . Công ty vận tải SAFI đã có quyết định chuyển sang công ty cổ phần 5/1998 đã thẩm định xong giá trị .. Tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra thì tiến trình cổ phần hoá ở nước ta vẫn còn chưa đạt tiến độ thực hiện chậm nhưng tập trung có mấy nguyên nhân sau đây. 2. Nguyên nhân CPH chậm ở Việt Nam trong những năm gần đây: - Các đội ngũ cán bộ công nhân viên,các doanh nghiệp chưa thực sự thông suốt tư tưởng CPH sự mất quuyền lãnh đạo , mất quyền lợi , mất việc làm … - Về chế độ chính sách chưa thoả đáng , chưa khuyến khích người lao động và DNNN chuyển sang CPH. - Trình tự ,thủ tục rườm rà ,phức tap nhất là khâu thẩm định giá trị doanh nghiệp , có nhiều công đoạn … III. Các yếu tố tác động quá trình CPH DNNN ở nước ta hiện nay. 1. Thuận lợi: - Điều kiện môi trường pháp lý hiện nay ở nước ta , về cơ bản đã được xác lập , đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “ thương mại hoá “ các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh ngiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để thực hiện cổ phần hoá các DNNN - Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá của DNNN và quyết tâm thực hiện .Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản nhằm thực hiện chương trình cổ phần hoá các DNNN như là công ty , quyết định 315, 330 về sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước .Nghị đinh 388- HDBT về thành lập và giải thể DNNN. - Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực . Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát được kiềm chế ,đồng tiền Việt Nam tương đối giữ giá. - Như những chính sách đổi mới trong phát triển kinh tế , thu nhập của dân cư được nâng cao . Hoạt động phát triển kinh tế , thu nhập của dân cư được nâng cao .Hoạt động trong cơ chế thị trường chưa lâu nhưng đã xuất hiện đôI ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn . 2 Khó khăn : -Khu vực tư nhân nhỏ và yếu ớt phản ánh trình độ chậm phát triển của khu vực kinh tế thị trường , hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với mọi người .ĐIều này gây ra sự bỡ ngỡ ,lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu dưới hình thức cổ phiếu , do đó làm cho việc tiến hanh chương trình cổ phần hoá ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển công ty hình thái công ty cổ phần. Thiếu vắng thị trường tài chính , trong đó có thị trường chứng khoán . Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của nhà nước . Các DNNN cũ kĩ, lạc hậu, biên chế cồng kềnh khả năng cạnh tranh thấp . chương III - giải pháp để thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới I. Những quan điểm cơ bản cần quán triệt trong cổ phần hoá Việc triển khai thí điểm chương trình cổ phần hoá đối với các DNNN trong thời gian qua cho thấy , cần phải xác định rõ một số quan điểm cơ bản nhằm tiếp tục thực hiện chương trình này . 1. Việc lựa chọn những DNNN để cổ phần hoá phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới và sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước . 2. Việc lựa chọn doanh nghiệp nào để cổ phần hoá là thuộc thẩm quyền và chức năng của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu , chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến giám đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp . 3. Xác đinh mục tiêu cổ p hần hoá cụ thể , phù hợp với từng loại doanh nghiệp , như loại cần huy động thêm vốn , loại cần thu hồi vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác , loại nên để người quản lý và lao động làm chủ … 4. Mọi tài sản của doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá đều thuộc sở hữu nhà nước , trừ quỹ phúc lợi tập thể là người chủ sở hữu , nhà nước có trách nhiệm với các khoản nợ của doanh nghiệp, thì lẽ đương nhiên , nhà nước cũng phải có trách nhiệm với phần “vốn tự có “ của doanh nghiệp . 5. Phải chú ý đến cả hai giá trị cấu thành :giá trị hữu hình và giá trị vô hình để kết hợp hai phương pháp tính giátheo thống kê toán và theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. 6. Phương pháp bán cổ phiếu ở các doanh nghiệp được cổ phần hoá cần thực hiện công khai rõ ràng , thủ tục đơn giản , dễ hiểu đối với mọi người để tránh sự lạm dụng của những người thực thi cũng như sự nghi ngờ của công chúng. 7. Ngoài thu hồi vốn , nhà nước cần phải xác định những khoản phí tổn thất nhất định vì lợi ích lâu dài của sự phát triển đất nước . Những khoản phí tổn cho bảo hiểm , trợ cấp cho người lao động , tìm việc làm mới , bán cổ phiếu theo giá ưu đãi cho những nhóm xã hội nhất định , cho vay tiền để mua không lãi suất hoặc với lãi suất thấp cho những đối tượng nhất định , ngoài ra còn có những chi phí về hoạt động tư vấn , quảng cáo , kiểm toán , môi giới đầu tư qua cổ phiếu. 8. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật công ty, cả về hình thức tổ chức quản lý , lẫn hoạt động tài chính .Vì vậy nhà nước cần thành lập một cơ quan hoạt động như một công ty tài chính quốc gia với đội ngũ các nhà sáng lập và quản trị để thay mặt nhà nước quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư vốn của nhà nước thông qua các công ty cổ phần . 9. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá phải có sự giải quyết rõ ràng , dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính , về lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần theo đúng những quy định đã ban hành của nhà nước . 10. Các công ty cổ phần trong đó nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế vẫn là DNNN. Vì : Việc chuyển một bộ phận DNNN hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận sang công ty cổ phần chỉ là sự thay đổi về hình thức tổ chức quản lý nhằm huy động thêm vốn , để trang bị kỹ thuật , đổi mới công nghệ từ đó tăng năng suất lao động , nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Quyền quản lý và quyền sở hữu doanh nghiệp được tách biệt một cách tương đối .Giám đốc DNNNcó toàn quyền điều hành doanh nghiệp theo chức năng , nhiệm vụ và quyền hạn của mình – dưới sự kiểm tra, giám sát của hội đồng quản trị và ban kiểm soát – kể cả quyền được mạo hiểm khi cần thiết để tìm cơ may sinh lời .Trong công tycổ phần hình thành một cơ chế ràng buộc giữa ba chủ thể : người sở hữu , người quản lý và người lao động sản xuất kinh doanh ,Từ đó đồng vốn của xã hội được phân bố và được sử dụng một cách có hiệu quả , hợp lý , tài sản nhà nước đỡ bị thất thoát , chíng phủ lại có thể rút ra một phần vốn từ việc bán cổ phiếu để đầu tư vào các công trình trọng điểm khác .Sự can thiệp hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế vào các hoạt động kinh doanh của DNNN sẽ được khắc phục .Tính tự chủ kinh doanh – thuộc tính vốn có của các loại hình doanh nghiệp trong cơ chế thị trường – sẽ được đảm bảo .Nhận rõ ưu thế của công ty cổ phần . Đại hội VIII của đảng đã chủ trương : “triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá DNNN để huy động thêm vốn tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả , làm cho tài sản của nhà nước ngày càng tăng lên , không phải để tư nhân hoá . Trên thực tế , tuy các công ty cổ phần của nhà nước vừa phải hoạt động theo luật công ty , vừa hoạt động theo luật DNNN, nhưng những doanh nghiệp ấy do nhà nước thành lập và quan trọng hơn nhà nước là chủ sở hữu cơ bản nhất nên nhà nước nắm quyền quyết định trong hội đồng quản trị .Như vậy lợi ích của nhà nước sễ được đảm bảo , tài sản vốn liếng trong doanh nghiệp không ngừng tăng lên về mặt giá trị lẫn hiện vật , những ưu thế về vốn , công nghệ và quản lý được phát huy điều mà DNNNtruyền thống và doanh nghiệp tư nhân khó có được . * DNNN cổ phần hoá có thể tồn tại dưới các hình thức : + DNNN chỉ bán một phần cổ phiếu cho cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp . + DNNN giữ nguyên 100% vốn nhà nước và phát hành trái phiếu để huy động thêm vốn . + Tách một hoặc vài bộ phận của Doanh nghiệp Nhà nước và bán cổ phiếu đối với bộ phận đó. + Bán cổ phiếu ngay từ đầu mới thành lập Doanh nghiệp Nhà nước. + DNNNbán cổ phiếu cho các cổ đông là những DNNN khác. Trong tất cả các hình thức trên , sở hữu nhà nước và lợi ích của chủ sở hữu nhà nước không hề bị xâm phạm .Vấn đề chỉ là ở việc lựa chọn đại diện của nhà nước tham gia hội đồng quản trị sao cho mà bảo đảm doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả , vừa bảo vệ được lợi ích của của cổ đông nhà nước . Khi tìm hiểu mô hình DNNN và những giải pháp cải cách DNNN của một số nước trong khu vực và trên thế giới ta thấy rằng , có nước đòi hỏi đã là DNNN phải có 100% vốn nhà nước cấp nhưng phổ biến nhất là chỉ cần tỷ trọng vốn nhà nước chiếm đa phần trong doanh nghiệp .Một số nhà nghiên cứu kinh tế Hàn quốc đã đưa ra quan điểm : “ cổ phần hoá DNNN là một hình thức tổ chức mà không chuyển đổi sở hữu. Nếu cả chính phủ và khu vực tư nhân cùng sở thì nó vẫn được gọi là DNNN chứ không phải là doanh nghiệp tư nhân . ở Pháp các doanh nghiệp nhà nước đều được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó nhà n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0890.doc
Tài liệu liên quan