MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tình hình cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Ý nghĩa của đề tài 3
6. Giới hạn của đề tài 3
7. Tiểu luận được cấu trúc như sau 3
CHƯƠNG I 4
KHÁI CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNG 4
I. Một số khái niệm cơ bản 4
1. Cái đẹp 4
2. Văn hoá 4
3. Nghệ thuật 5
4. Sân khấu 6
5. Chèo 6
II. Khái quát chung về nghệ thuật sân khấu chèo 6
1. Tính biểu trưng ước lệ 6
2. Tính biểu cảm 6
3. Tính tổng hợp 7
4. Tính linh hoạt 7
CHƯƠNG II 9
CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNG 9
I. Vài nét về sự hình thành nghệ thuật sân khấu chèo 9
II. Mấy nét đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống 9
1. Cái đẹp trong phong vị chèo 9
1.1. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn 10
1.2. Sự kết hợp giữa cái bi và cái hài 10
1.3 Sự kết hợp giữa dân gian và bác học 10
1.4. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại 11
2. Nét đẹp trong cách sử dụng văn học chèo 11
2.1. Sử dụng văn học dân gian và văn học bác học 11
2.2. Sử dụng chất liệu thư pháp 12
3. Nét đẹp của nội dung và hình thức 13
3.1. Về nội dung 14
3.2 Về hình thức 15
4. Nét đẹp trong làn điệu, múa, nhạc, trang trí của nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống 16
4.1. Nét đẹp trong làn điệu chèo 16
4.2. Nét đẹp trong múa chèo 17
4.3. Nét đẹp của âm nhạc chèo 18
4.4. Nét đẹp trong trang trí và đạo cụ 19
CHƯƠNG III 22
TÌM HƯỚNG ĐI ĐỂ GÌN GIỮ, BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN 22
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNG 22
I. Một số quan điểm chung 22
II. Hướng đi cụ thể 22
1. Bảo lưu và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo chuyên nghiệp 22
2. Bảo lưu và phát triển nghệ thuật chèo cơ sở 23
3. Bảo lưu và phát triển nghệ thuật chèo trong đào tạo 23
KẾT LUẬN 25
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16730 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các loại vai: đào, kép, lão, mụ, vua, quan, hề v.v… mỗi nhân vật được phân thành nhiều kiểu khác nhau. Ví dụ: hề thì có hề gậy, hề áo dài, hề áo ngắn…
2. Tính biểu cảm
Nghệ thuật sân khấu chèo diễn tả tình cảm nội tâm mang đậm chất trữ tình từ nhân vật, cốt truyện tới âm nhạc, làn điệu chèo.
Sân khấu chèo gần gũi với làng quê, tính biểu cảm của nó còn thể hiện ở chỗ vai trò của người phụ nữ luôn được nhấn mạnh và tô đậm: từ bi như Thị Kính, lẳng lơ như Thị Mầu (chèo Quan Âm Thị Kính), hiền thảo như Thị Phương (cheo Trương Viên), tiết hạnh như Châu Long (chèo Lưu Bình Dương Lễ)…
3. Tính tổng hợp
Sân khấu chèo truyền thống không phân biệt các thể loại, có khi trong một vở diễn chất bi hay chất hài cùng tồn tại. Yếu tố hài thường trực với những vai hề mồi, hề gậy. Yếu tố bi với những số phận nhân vật đầy đau thương, bất hạnh.
Ví dụ: Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, không có gì bi hơn là cuộc đời của Thị Kính, nhưng cũng không có gì hài hơn những cảnh Thị Mầu lên chùa, xã trưởng, mẹ đốp, họp ở đình làng…
4. Tính linh hoạt
*Sân khấu chèo truyền thống không đòi hỏi diễn viên phải tuân thủ một cách chặt chẽ bài bản của lớp diễn. Mang trong dạ cái thần, cái ý chính của vở, người nghệ sĩ có thể tuỳ trường hợp mà biến báo lời diễn cho thích hợp.
*Tính linh hoạt còn thể hiện ở chỗ sân khấu chèo truyền thống có sự giao lưu mật thiết với người xem. Sàn diễn thường là sân đình, với 4 mảnh chiếu trải ngay trước cửa chính. Người xem ngồi vây kín ba mặt, sát tận mép chiếu và có thẻ tham gia bình phẩm khen chê chen vào những câu ngẫu hứng. Chính đó là con đường hình thành một loại lời thoại đặc biệt trong sân khấu chèo truyền thống - đó là tiếng đế. Ví dụ: Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính cảnh Thị Mầu lên chùa: ngoài sân khấu có những tiếng đế của dàn nhạc công: “Mầu ơi nhà mày có mấy chị em”, Thị Mầu trả lời “nhà tao có chín chị em”, tiếng đế lại cất lên: “có ai như mày không”, Thị Mầu trả lời “có mỗi mình tao là chín chắn nhất nhà” …
*Sự giao lưu mật thiết giữa sân khấu chèo với người xem còn thẻ hiện ở vai trò của người cầm chầu. Phường chèo đến diễn ở một làng nào đó, làng đó sẽ cử ra một người cầm chầu, ngồi sát chiếu diễn với chiếc trống chầu trong tay, giữ trịch cho đêm hát. Đó phải là người sành nghệ thuật, thuộc nhiều tích, biết nhiều làn điệu để đại diện cho dân làng nói lên tiếng nói đánh giá thưởng phạt khen chê. Việc cầm trịch và khen chê thưởng phạt được thể hiện qua tiếng trống chầu.
Nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống nang đậm những nét đặc trưng tiêu biểu cho nghệ thuật dân gian Việt Nam. Nó mang trong mình vẻ đẹp của một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, một nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì thế ngày nay nghệ thuật sân khấu chèo tiếp tục được giữ gìn và phát triển để trở thành một bộ phận không thể thiếu trong nền nghệ thuật sân khấu dân tộc. Sân khấu chèo đã quảng bá một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với bạn bè quốc tế , đã góp phần đem nền văn hoá dân tộc tiến gần hơn với nền văn hoá của các nước trên khắp năm châu.
CHƯƠNG II
CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNG
I. Vài nét về sự hình thành nghệ thuật sân khấu chèo
Nhiều nhà nghiên cứu thời kỳ sơ khai của sân khấu dân tộc là thời đại Nhà Lý (triều vua Lý Thái Tổ. Bắt đầu từ những trò diễn xướng dân gian và các hình thành ca múa. Vua Lý Thái Tổ lấy ngày vua sinh làm tiết Thiện Thánh, cho làm núi bằng tre, trên núi cắm cờ xí cho người con hát ở trong núi đó đánh sênh, thổi sáo, hát múa cho vui.
Phong trào hát múa được coi trọng, phong trào sinh hoạt nghệ thuật phát triển để thoả mãn nhu cầu của vua chúa hoàng tộc và quan lại. Nhiều nghệ nhân bậc thầy nổi tiếng: Phạm Thị Chân, Đặng Hồng Lân, Đào Văn Sơ, Tôn Sư Từ Đạo Hạnh, Chính Vĩnh Căn v.v… là những vị tổ của sân khấu truyền thống đã xuất hiện trong thời nhà Lý.
Sân khấu Chèo được hình thành và phát triển trên châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Từ những bài hát của đạo Phật, đạo Hiếu, từ sự tín ngưỡng, từ âm nhạc dân gian, từ trò hát nhại, từ tiếng trống trò trong quân ngũ. Theo TS Trần Đình Ngôn thì: “nghệ thuật chèo bắt nguồn từ trò nhại và múa hát dân gian qua hình thức tế lễ, chèo thuyền bát nhã của đạo Phật rồi trở thành sân khấu dân gian”.
Chèo là nghệ thuật của người nông dân phía Bắc Việt Nam, được họ yêu quý - gìn giữ và phát triển qua bao thế hệ. Chèo đáp ứng nhu cầu thâm mỹ của người dân lao động, nó mang phong vị mà người nông dân Việt Nam ưa thích. Sở dĩ chèo vẫn trường tồn và phát triển như ngày nay vì nó tôn thờ cái thiện, cái đẹp, cái cao thượng, nó thấm đẫm chủ nghĩa nhân văn dân tộc, đồng thời nó mang đậm đà tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Những vẻ đẹp của thuần phong mỹ tục dân tộc, những mẫu mực về đạo đức truyền thống đã thực sự tạo nên hình hài của văn hoá ứng xử “đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam”.
II. Mấy nét đẹp trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống
1. Cái đẹp trong phong vị chèo
Phong vị chèo là thuộc tính phẩm chất, một nét đẹp riêng của chèo truyền thống. Đó chính là những tính chất, đặc biệt là sự kết hợp tài tình giữa các tính chất để người xem cảm thụ được để rồi hứng thú nó, say mê nó. Bốn thuộc tính phẩm chất riêng của chèo là:
1.1. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn
Đó là sự kết hợp những sự kiện, những tình tiết gần gũi với đời sống hiện thực và những sự kiện, những tình tiết đã được huyền thoại hoá, lý tưởng hoá, giả định hoá. Nó vừa khắc hoạ được bản chất, cái thần của đời sống con người, vừa thể hiện được ước mơ - khao khát vươn tới cái đẹp, cái hoàn mỹ của người nông dân lao động. Họ là những con người bình thường nhưng đã vươn tới những hành vi ứng xử siêu phàm: như Dương Lễ - Châu Long (trong vở Lưu Bình-Dương Lễ), Thị Phương (trong vở Trương Viên), Thị Kính (trong vở Quan Âm Thị Kính) …
1.2. Sự kết hợp giữa cái bi và cái hài
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thấy vở chèo đều tổ chức kết cấu theo dòng sân khấu tự sự. Tìm hiểu kỹ các vở diễn chèo truyền thống ta thấy kết cấu tự sự trong chèo có nét riêng, đó là sự sắp xếp các sự kiện tình tiết luôn được xen kẽ giữa cái bi và cái hài. LCứ sau một chuyện đau lòng rơi nước mắt thì lại đến một trận cười hả hê. Vậy mà hai yếu tố đó không hề phương hại đến nhau, trái lại đã tạo ra thế tương phản để càng được nhấn mạnh, càng gây cảm xúc cho người xem cao hơn nữa, tinh tế hơn nữa trong cuộc sống.
Có khi cái hài, cái bi lồng vào nhau, mới xem thì thấy hài, cảm thụ hài nhưng xem kỹ thì thấy trong đó chứa đựng một cái bi.
Ví dụ: lớp Thị Màu lên chùa ghẹo chú tiểu lẳng lơ đến mức trơ trẽn, mà lại ghẹo ngay vào chú tiểu giả trai, điều đó thật đáng cười, nhưng ngay sau tiếng cười ấy lại là sự cảm thông đến sót thương cho bi kịch của một người con gái đang phơi phới xuân xanh, khát khao hạnh phúc mà là bị giam hãm trong sự khắt khe của giáo lý phong kiến.
1.3 Sự kết hợp giữa dân gian và bác học
Sự kết hợp này làm cho chèo vừa giản dị, mộc mạc trong sáng vừa chứa đựng được những ý nghĩa tinh tế, hàm xúc, mang tính chất triết lý. Trèo là sân khấu dân gian bắt nguồn từ nghệ thuật dân gian và văn hoá dân gian . Nhưng trong quá trình phát triển với sự tham gia ngày càng nhiều của các tri thức phong kiến vào khâu sáng tác tích trò, đã đem vào chèo luồng văn chương bác học. Sự kết hợp hài hoà giữa dân gian và bác học không dừng lại ở văn chương chèo (đối thoại và lời ca), mà còn thể hiện ở nghệ thuật biểu diễn. Bên cạnh lối diễn phóng khoáng đầy chất hội hè dân dã với sự giao hào một cách hồn nhiên giữa người diễn với người xem, là lối diễn trang nghiêm đĩnh đạc mực thước như những quy phạm cổ điển. Trong năm loại mô hình nhân vật theo cách phân định của giáo sư Trần Bảng thì Hề, Lão, Mụ, thường diễn theo phong cách dân gian; còn Sinh, Đào thường diễn theo phong cách gần như cổ điển, gần với hình tượng văn học của văn chương cổ điển.
1.4. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại
Sự kết hợp này vừa tiếp tục khẳng định những chuẩn mực đạo đức truyền thống vừa đề cập đến những chuyện đời thường của người đương thời. Kể chuyện xưa mà cứ như đang nói chuyện nay. Thuộc tính này khá độc đáo vì thế mà chèo có sức sống mãnh liệt và lâu bền.
Trong quá trình phát triển của chèo, các vở diễn ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những thành tựu nghệ thuật của các vở trước nhất là về ca hát và trò diễn, đặc biệt là về những miếng trò ngoài tích. Những vở chèo sau thường xuất hiện thêm những lớp trò mới và theo nó là tính cách nhân vật kiểu mới (dù vẫn là 5 mô hình: Sinh, Đào, Hề, Lão, Mụ) với những số phận tâm trạng mới không giống các nhân vật đã gặp trong các vở cũ. Nhân vật với tính cách, số phận và trạng thái tâm lý mới đã kéo theo những tích trò mới và làn hát mới được sáng tạo. Đây là sự kết hợp ngẫu nhiên của truyền thống và hiện đại.
2. Nét đẹp trong cách sử dụng văn học chèo
2.1. Sử dụng văn học dân gian và văn học bác học
Bắt nguồn từ văn học dân gian và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học bác học. Văn học chèo chủ yếu sáng tác theo phương pháp nghệ thuật của ca dao, tục ngữ. Bên cạnh đó cũng khá nhiều câu phô diễn theo lối văn chương bác học. Bình dị mộc mạc trong sáng và duyên dáng như ca dao:
“Thầy như táo rụng sân đình.
Em như gái dở đi tìm của chua”
Hay: “Ta đi chợ Dốc - ngồi gốc cây đa, thấy cô yếm thắm mặc áo nâu già, thắt dây lưng xanh”…
Lại có những lời hát rất hàm xúc và khái quát cao:
“Lác đã mưa ngâu - xình xịch mưa ngâu.
Lá ngâu rụng xuống - bông lau phất cờ
Nước xanh phẳng lặng như tờ
Một đàn cá lớn nhấp nhô đầu gềnh
Kìa ai than khóc đầu gềnh”.
Một bức tranh phong cảnh mùa thu được vẽ lên, nhưng thấy thấp thoáng trong đó là một bức tranh xã hội hiện ra. Bọn phong kiến của thời đại này thay bọn phong kiến của triều đại khác (lá ngâu - phất cờ) để cuối cùng người dân là nạn nhân đau thương nhất (Kìa ai than khóc đầu gềnh.
Và những câu thơ ảnh hưởng đến văn chương bác học:
“Mộng tàn bán chẩm mê hồ điệp
Xuân tận tàn canh, oán tử quy”.
Đây là lời than thở của Lưu Bình khi ăn cùng mâm, ở cùng nhà với nàng Châu Long nhưng vẫn phải giữ khoảng cách chưa được “gặp nhau”.
2.2. Sử dụng chất liệu thư pháp
Ngôn ngữ đối thoại của chèo thể hiện đậm đà nhất trong ca từ, với thể thơ dân tộc và độc đáo nhất là thể thơ lục bát. Thơ lục bát sử dụng trong chèo khi các nhân vật ngâm - vỉa - hát - nói đều có cả.
“Đêm rằm gió mát trăng thanh
Bầu tiên chúc rượu câu thần ngân nga
Vui chơi chén rượu cuộc cờ
Sớm xem hoa nở tối chờ trăng lên”…
Với thể thơ lục bát trên có thể sử dụng hát với rất nhiều làn điệu: xẩm xoan, lới lơ, sa lệch chênh, sắp…
Song thất lục bát cũng là một thể thơ dân tộc được sử dụng rất nhiều trong sân khấu chèo với các làn điệu: quân thừa, hoàng chiếu, chinh phụ …
Từ những câu nói lên bổng xuống trầm với các thành huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Đối thoại trong sân khấu chèo đã tiến tới chỗ cách điệu và thể hiện bằng những câu thơ mang tính biến ngẫu, đổi ý, đổi thanh, ngắn, dài khác nhau rất linh hoạt bao nhiều thể thơ khác nhau: thể 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ v.v…; đảo lên đảo xuống rất nhịp nhàng. Nói mà như hát, như đọc thơ, ngâm thơ.
3. Nét đẹp của nội dung và hình thức
Trong bất kỳ lĩnh vực nào thì con người cũng đều hướng tới cái đẹp, khát vọng vươn tới cái đẹp, cái hoàn hảo, hướng tới chân-thiện-mỹ. Trong đời sống con người, cái đẹp làm chuẩn mực cho mọi giá trị. Trong nghệ thuật nói chung cái đẹp là linh hồn, là mẫu số chung cho mọi tác phẩm. Trên sân khấu chèo, cái đẹp cũng mang một tính chất chung như vậy. Đẹp từ hình thức đến nội dung, từ ngôn ngữ lời thoại , từ cách thức dùng từ ngữ trong văn chương, đến cách biểu đạt trên sân khấu. Từ cái đẹp trong phục trang, đạo cụ cảnh trí, âm nhạc, lối hát, cách múa, cách diễn đẹp đến tâm hồn người nghệ sĩ. Cái đẹp trong sân khấu nói chung và ở nghệ thuật chèo nói riêng phải mang đầy đủ các hình thức của cái đẹp trong tự nhiên, trong xã hội tổng hợp lại. Bởi vì cái đẹp trong nghệ thuật như một số nhà nghiên cứu lý luận đã nói: “là cái đẹp tổng hoà trong cái đẹp thiên nhiên và cái đẹp trong xã hội”. “Cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp mang tính điển hình được diễn tả bằng các hình thức nghệ thuật khác nhau. Từ những cái đẹp trong cuộc sống, người nghệ sĩ đã chọn lọc chắt chiu, cô đọng rồi nhào nặn thành cái đẹp điển hình, độc đáo và sắc sảo.
Sân khấu chèo với nét độc đáo từ cuộc sống của người dân lao động và mong muốn vươn tới cái đẹp hoàn hảo mà hình thành mang đậm nét đẹp từ hình thức đến nội dung. Sân khấu chèo có nhiệm vụ làm thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người. Chèo là một nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Nó luôn phản ánh những khát vọng chân thực, những ước ao, hạnh phúc, thuỷ chung. Bắt nguồn từ dân ca châu thổ Bắc Bộ, từ các lễ hội truyền thống của những người nông dân, để tồn tại đến ngày nay chèo đã tiếp thu: hò lao động, âm nhạc, ca hát, nghi lễ phong tục và phần nào âm nhạc tôn giáo. Từ hát ru con, hát giao duyên, hát kể chuyện trong diễn xướng dân gian. Đặc biệt chèo đã tiếp thu nhiều nhất loại âm nhạc kể chuyện tự sự: hát sẩm, hát ả đào và một số hình thức diễn xướng dân gian, phong tục tôn giáo như: hát chầu văn, hát trong nhà chùa hay trong tang lễ.
Về thực chất thì những giai điệu của ả đào, hát sẩm, hát chầu văn cũng đều có xuất xứ từ dân ca mà có. Do đó chèo mang đậm chất dân ca, phần lớn các làn điệu chèo có nguồn gốc từ dân ca châu thổ Bắc bộ và chính nó là những làn điệu dân ca được nâng cao và phát triển.
Ví dụ: trong làn điệu dân ca đồng bằng Bắc bộ có làn điệu “ví đồng ruộng” và làn điệu “vỉa cấm giá” của vở chèo Quan Âm Thị Kính có một mối liên hệ về phong cách, về tính âm điệu. Hoặc như bài “Trống cơm” của dân ca quan họ Bắc Ninh và làn diệu “Hề mồi đồn rằng” cũng vậy. Ở bài Trống cơm: “tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ, ấy bông nên bông. Một bầy tang tình con xít. Nó mới lội - lội sông, nó mấy đi tìm, em nhớ thương ai. Đôi con mắt nó mấy lim dim”. Thì ở làn hề Mồi đồn rằng: có cô là tên con gái/có cô là/cô con gái trái/nhân duyên cô nhỡ chồng ấy mấy/chiếc trông cơm ai khéo vỗ tình lên i vông/một đàn dàn/con xít/phú lý lội/lội/lội/lội sông ô mấy đi tìm…
3.1. Về nội dung
Cái đẹp về mặt nội dung trong tác phẩm sân khấu chèo truyền thống cho ta thấy đây là loại hình sân khấu khuyên giáo đạo đức. Như ai cũng biết, nội dung phần lớn các vở chèo cổ thường đưa ra các khuôn mẫu đời sống, trong đó nhân vật thư sinh hoặc một viên khoa bảng giữ vai trò cầm cân nảy mực trong gia đình, lấy tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức làm gương soi. Từ đó người thân của họ (thường là vợ, là con, là bạn) sẽ gặp những sự biến xảy ra và họ chính là người đứng mũi chịu sào, giải quyết sự biến đó. Vì đề cao số phận nhân vật đạo đức mẫu mực, mà các sự biến được khai thác đủ để chứng minh cho chân lý: người tốt sẽ đạt được hạnh phúc, kẻ xấu sẽ bị trừng phạt, đoạ đầy, tất cả an bài trong định mệnh cố hữu. Đặc điểm này đã tạo nên nét đẹp độc đáo trong nội dung tác phẩm chèo. Chính nó đã quyết định nên phương pháp “ước lệ - cách điệu” của sân khấu chèo truyền thống. Cái đẹp của nội dung chèo truyền thống luôn hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ
3.2 Về hình thức
Về hình thức thì nói đến chèo là phải nói đến tính tự sự của nó. Có lẽ ngoài chèo ra thì không có một loại hình sân khấu nào có đặc điểm riêng độc đáo như vậy. Nhân vật của chèo (cổ) khi vào sân khấu bao giờ cũng xưng danh tôi là ai, tôi sẽ làm gì rồi giao đãi tình huống cho thoả đáng rôi mới vào trò diễn. Một nét đẹp trong văn hoá ứng xử rất độc đáo và duyên dáng. Một màn chào hỏi rất tinh tế với nét đẹp của phong tục Việt Nam.
Qua những kịch bản chèo xưa ta thấy cách xắp xếp bố cục theo lối kể chuyện rất hay, có giáo đầu, giới thiệu tích truyện rồi câu chuyện được kể lại bằng sân khấu qua từng lớp diễn, màn diễn nối tiếp nhau không đứt quãng, rất dễ hiểu, gần gũi, gắn liền với quần chúng lao động. Nó không hề lệ thuộc cứng nhắc vào không gian, thời gian, địa điểm. Kết thúc của vở chèo bao giờ cũng có hậu, cái thiện chiến thắng cái ác, câu chuyện chèo là những câu chuyện dân dã trong cuộc sống đời thường. Nhân vật chèo có cá tính rõ nét ngay từ bước đầu tiên ra sân khấu. Cách trang trí, phục trang, đạo cụ đã gần như phác hoạ ra tính cách nhân vật một cách rõ nét. Tích trò thường là những câu chuyện có sẵn trong các câu chuyện cổ, truyện nôm khuyết danh như “Quan Âm Thị Kính”, “Lưu Bình - Dương Lễ”, “Phạm Trân - Cúc Hoa” v.v… Nhưng cũng có tích hư cấu dựa theo lịch sử qua giai thoại, huyền thoại, sự kiện như “Trương Viên”.
Tư tưởng chủ đề trong kịch bản chèo và vở diễn đôi khi trái ngược nhau. Kịch bản văn học là của Nho sinh mang nặng ý thức hệ phong kiến, khuân vào những lễ giáo của đạo Nho, đạo Phật, còn diễn viên với tài ứng diễn của nghệ nhân - nhất là các vai hề - là những người nông dân lao động nên nhân sinh quan không đồng nhất, tạo nên nét riêng độc đáo cho từng tác phẩm. Thực tế này đã chứa đựng cho sân khấu chèo cả tính trữ tình và trào lộng tạo thành một phong cách đẹp riêng biệt, hài hoà, không căng thẳng, có buồn, có vui đan xen đem đến cho quần chúng tiếng cười sảng khoái và những dòng nước mắt tuôn trào.
Kịch bản ít khi được bằng văn bản mà nó thường được ghi nhớ trong trí nhớ của các ông “trùm”, ông “thơ” và các nghệ nhân. Vì vậy cùng một tích trò, mỗi một nôi chèo: Đông - Nam - Đoài - Bắc (tứ chiếng) đều có những lớp, màn khác nhau trong một cốt lõi trò giống nhau, tạo nên phong cách riêng của từng chiếng chèo.
4. Nét đẹp trong làn điệu, múa, nhạc, trang trí của nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống
Nghệ thuật chèo bao gồm: hát, múa, nhạc, diễn, trang trí. Là những thành phần quan trọng của môn kịch hát dân tộc nằm trong di sản văn hoá truyền thống Việt Nam. Vì vậy xin được nêu lên 5 nét đẹp tiêu biểu trong nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống.
4.1. Nét đẹp trong làn điệu chèo
Trong các làn điệu chèo ta thấy bóng dáng của hầu hết các loại dân ca của Bắc bộ. Từ hát ghẹo của đất tổ Hùng Vương, đến tiếng hò trên sông Hương - núi Ngự. Những điệu nông ca khi cào cỏ, bón phân, cấy trồng. Những điệu ngư ca khi chèo thuyền, buông câu, chài lưới. Những điệu hát xẩm, hát văn, hát quan họ, hát canh, kê, sai, luyện, ca trù… đã được nghệ nhân chèo nắn bẻ, sáng toạ và phát triển thành các làn điệu chèo phù hợp với yêu cầu diễn biến, tình tiết của từng nhân vật.
Làn điệu chèo thường được sử dụng cho nhiều nhân vật, nhiều vở diễn, chỉ có lời hát là thay đổi sao cho phù hợp với từng nhân vật, từng tích truyện. Mỗi tích trò, mỗi nhân vật đều có sự lựa chọn làn điệu khác nhau cho phù hợp tạo thành một phong cách cho từng nhân vật, từng vở diễn.
Người yêu mến chèo cổ thường nói: muốn nghe hát thì xem “Quan Âm Thị Kính”, “Kim Nham”, “Trương Viên”; nghe nói sử thì xem “Lưu Bình - Dương Lễ”; nghe nói hề thì xem “Từ Thức” v.v… Điều đó cho thấy mỗi vở chèo xưa đều có những chọn lọc tinh tế, làn điệu chính cho tác phẩm của mình, mang một phong cách, một nét đẹp riêng, độc đáo cho tác phẩm.
Bài hát mở đầu đêm diễn nhằm ổn định trật tự và cũng là để cho diễn viên sửa giọng chuẩn bị cho vai diễn thường là hát đồng ca. Một xách xử lý tinh vi trong nghệ thuật chèo giúp cho diễn viên khai giọng và khán giả ổn định trật tự đón xem vở diễn. Chẳng cần phải kêu gào ổn định trật tự, chẳng cần phải có một đội quân dẹp đám đông, cứ bài hát đồng ca mở đầu vang lên là mọi thứ tự nhiên đi vào nề nếp trật tự. Thật hiếm có một phương pháp nào hay hơn phương pháp này của sân khấu chèo.
Làn điệu chèo là một hình thức phổ thơ, chủ yếu là thơ lục bát, một thể thơ độc đáo của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở thanh điệu của tiếng Việt, làn điệu chèo phổ thơ cho nên các âm trong điệu hát thường ứng với từng lời trong thơ cùng với các dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã và thanh không. Vì vậy giai điệu do thanh điệu của tiếng Việt tạo ra được tiết tấu hoá trở thành khúc điệu chèo. Hát chèo với những làn điệu có nguyên tắc cấu trúc riêng nên nó không giống với bất kỳ một loại nhạc nào. Sử dụng chất liệu dân gian nhưng làn điệu chèo đã thoát khỏi vỏ bọc dân ca để tạo ra một loại ngôn ngữ âm nhạc mang tính bác học. Biểu đạt được mọi tình cảm trạng thái tâm lý con người. Đó chính là nét đẹp riêng của làn điệu chèo, một hiện tượng độc đáo của nền âm nhạc Việt Nam.
Mỗi làn điệu chèo đều gắn liền với nội dung vàtính cách của tâm trạng nhân vật, đôi khi nó được khắc hoạ ngay trong câu hát, ở nhịp đầu tiên của các làn điệu.
Ví dụ: làn điệu “con gà rừng” nhịp đầu hát con gà… a á rừng (tình tinh tinh chát), hay làn điệu “dậm chân” hát từ trở đầu. Tôi dậm í ì i chân vái i ì đất/ í i tôi kêu/í i trời …
Một nét độc đáo trong các làn điệu hát chảo là các làn điệu rất phong phú, hàm chứa nhiều cung bậc, tình cảm đời sống dân gian và thấm đẫm chất liệu cổ truyền vừa đa dạng, vừa độc đáo. Chính vì thế - khác các loại hình khác, hát chèo thường chia làm 4 loại để sử dụng cho phù hợp với đặc điểm riêng.
4.2. Nét đẹp trong múa chèo
Bắt nguồn từ múa dân gian đồng bằng Bắc bộ, từ múa bông, múa xuân phả, múa trong diễn xướng nhật đồng và phần nào mang dấu ấn của múa chăm. Nhưng phần lớn những lớp múa hay nhất, đẹp và độc đáo nhất đều bắt nguồn từ đời sống sinh hoạt hay lao động của người dân Việt Nam, mang đậm dấu ấn của vùng đồng bằng lúa nước ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Nét đẹp của sắc thái dân tộc Việt được thể hiện khá rõ nét trong từng động tác múa.
Lớp múa của “Thị Mầu lên chùa” đã trở thành ngôn ngữ chính để diễn tả cái khát khao, cái lẳng lơ của nhân vật Thị Mầu. Còn trong trích đoạn “Xuý Vân giả dại”, lớp “giả điên” là một tổ hợp múa liên tục kế tiếp nhau bằng các động tác xe chỉ, luồn kim, khâu vá rồi lội sông, té bèo v.v…. Với những đường nét khi khoan thai, khi gấp gáp đột biến, diễn tả cái điên dại giả vờ của Xuý Vân.
Nét đẹp tinh tế ở đây chính là sự gần gũi của múa Chèo với đời sông quần chúng. Từ những công việc hàng ngày rất bình thường trong cuộc sống đã được chọn lọc và sáng tạo tinh tế để trở thành cái đẹp lung linh của nghệ thuật.
4.3. Nét đẹp của âm nhạc chèo
Nét đẹp của âm nhạc chèo truyền thống thể hiện ở dàn nhạc công với các nhạc cụ gồm trống, mõ, thanh la, nhị, hồ, nguyệt, sáo. Tuy không có vai trò quan trọng song nó làm cho không khí đêm diễn thêm rộn rã, mang một sắc thái riêng biệt. Đặc biệt là “tiếng trống chèo” một nhạc cụ dân tộc độc đáo nhất. Đó là bản hoà tấu “thi trống” trong chèo, tất cả các nhạc cụ trong bộ gõ cũng được diễn tấu, tạo nên một không khí tưng bừng sôi nổi, có sức cuốn hút người đến xem hội chèo: “Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe tiếng trống chèo bế bụng đi xem”
Độc đáo hơn là cả chiếc trống con, với âm thanh và âm sắc không thể lẫn vào đâu được. Với tài điêu luyện của nhạc công, những âm “rục” chen lẫn âm “tình tính chát” kết hợp hài hoà tạo nên những khổ trống lưu không xuyên tâm đặc sắc trong chèo.
Cây nhị trong chèo ngọt sắc, réo rắt, trong vắt diễn tả được nỗi buồn đến xót xa. Trong các làn điệu sử dầu, làn thảm, du xuân v.v… Xong nó lại tả được niềm vui trong sáng. Điệu đường trường tiếng đàn, sắp cổ phong v.v… lại tha thiết trữ tình. Trong các làn điệu luyện năm cung, nhịp đuổi, đường trường bắn chim thước…, cây nhị ở âm khu cao tạo nên vẻ réo rắt, cuốn hút với tính chất thiết tha, da diết đầy ấn tượng.
Chiếc trống cơm bập bùng không dùng dùi đánh mà gõ nhịp nhàng bằng hai tay theo nhịp điệu làn hát hoà vào giàn nhạc đệm cho người hát làm duyên. Thêm vào cho làn điệu chèo như là một thứ gia vị độc đáo cho một món ăn đặc sản.
4.4. Nét đẹp trong trang trí và đạo cụ
Nghệ thuật tạo hình tham gia vào sân khấu chèo dân gian xưa ít ỏi và muộn mằn hơn so với văn chương và âm nhạc. Trong điều kiện nghèo nàn về vật chất của các gánh chèo xưa, cùng với phương tiện vận chuyển chỉ là đôi chân đi bộ, lại thường biểu diễn trên sân đình, sân nhà quan, nhà giàu nên các gánh chèo xưa đều không có cảnh trí cho các vở diễn. Cả trang phục và đạo cụ đều rất giản dị mộc mạc.
*Sân khấu chèo xưa chỉ vẻn vẹn có một chiếu chiều chèo trải giữa sân đình, mọi người ngồi xem sát bốn xung quanh chiếu. Trên chiếc chiếu là một chiếc hòm đồ, khi vận chuyển thì đựng trang phục, khi diễn hòm trở thành vật tượng trưng cho cảnh trí, khi là núi non, lúc là long sàng hay thềm đá v.v… thay đổi theo diễn xuất ước lệ của các nhân vật trong từng hoàn cảnh quy định.
Ngăn cách giữa chiếu chèo với buồng trò (nơi diễn viên hoá trang, thay trang phục để chờ ra diễn) là một cánh màn dải thẫm màu hai bên mép màn trở thành cửa sinh, nơi nhân vật chèo ra vai, vào trò, và cửa tử nôi nhân vật thoát vai, hạ trò. Xét về mặt nghệ thuật, sự giản dị mộc mạc chưa hẳn đã là độc đáo, nó khó thoả mãn nhu cầu thị giác của người xem, có khiếu thẩm mỹ khác với người dân lao động, nhưng nó vẫn là một nét đẹp riêng của nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống.
*Trang phục trong chèo: Trang phục trong chèo truyền thống không phức tạp trong cách vì nó được khai thác dựa trên quần áo đời thường. Đặc điểm là mộc mạc, giản dị với quần chúng, thể hiện được quan điểm thẩm mỹ của người diễn chèo và người xem chèo truyền thống. Họ coi trọng ý nghĩa cao đẹp của tích trò hơn sự lộng lẫy của trang trí, phục trang vở diễn. Họ coi trọng tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ hơn là những thứ phù trợ hoa hoè hoa sói. Đó cũng chính là nét đẹp riêng của nghệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Myhoc (41).doc