Xuân Diệu hướng về sự sống chẳng bao giờ chán nản vì cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Với cái nhìn cuộc sống muôn màu muôn vẻ, Xuân Diệu thấy cuộc sống đẹp như thiên đường trên mặt đất: Của ong bướm này đây tuần tháng mật / Này đây hoa của đồng nội xanh rì / Này đây lá của cành tơ phơ phất / Của yến anh này đây khúc tình si (Vội vàng)
Vì vậy, nhà thơ luôn thiết tha gắn bó với cõi trần, với cuộc đời hiện tại. Nhà thơ đã mang lại một quan niệm nhân sinh mới: Hạnh phúc là ở giữa trần gian, ở ngay trong hiện tại (Khác với quan niệm nhân sinh của người xưa). Xuân Diệu sống với thì hiện tại mà ngày trước và ngày sau đều không đáng kể: Kể chi chuyện trước với ngày sau (Tình trai), Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai (Giục giã). Đối với các nhà thơ khác, hiện tại là những nấm mồ chôn tuổi trẻ: Và Hiện Tại, biết cùng chăng hỡi bạn / Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh (Những nấm mồ – Chế Lan Viên). Bao nhiêu người khác chối bỏ hiện tại, Thế Lữ thoát lên tiên, Vũ Hoàng Chương say, còn ở Thâm Tâm và Nguyễn Bính vang lên điệp khúc ra đi, ra đi. Chỉ có Xuân Diệu bám riết lấy hiện tại, lấy cõi trần.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5271 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cái nhìn nghệ thuật - Một phương diện chủ yếu của phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột giá trị tinh thần vĩnh viễn, là phương tiện biến khoảnh khắc thành vĩnh cửu, biến hữu hạn thành vô hạn, biến bốn mùa thành mùa xuân..
Xuân Diệu không bằng lòng với tình yêu mơ màng, xa xăm như Thế Lữ hay Lưu Trọng Lư mà huy động cả linh hồn và thể xác, mọi giác quan để hưởng thụ tình yêu một cách vồ vập: Mau lên chứ vội vàng lên với chứ / Em em ơi tình non đã già rồi (Giục giã); Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực! / Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài / Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai / Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt / Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt (Xa cách). Với Xuân Diệu, lần đầu tiên ở Việt Nam, tình yêu được quan niệm một cách chân thành, táo bạo, mới mẻ đến thế.
ở đề tài tuổi trẻ, tình yêu, Xuân Diệu khẳng định giá trị vĩnh hằng của chúng: Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu vĩnh viễn; Tình không tuổi và xuân không ngày tháng.
ở đề tài thời gian, Xuân Diệu đối phó với sự chảy trôi của thời gian bằng cách khẳng định hiện tại, sống sâu sắc, sống sôi nổi, mãnh liệt với hiện tại, khẳng định tình yêu và thơ ca sẽ là phương tiện chiến thắng thời gian. Điểm độc đáo nữa của Xuân Diệu khi triển khai đề tài thời gian là ở chỗ: với ông, chỉ có hai mùa: mùa xuân và mùa còn lại. Mà phần còn lại hầu như không có, vì các mùa đều có thể thành xuân, mùa xuân ở giữa mùa thu, mùa hè, mùa đông, bởi đó là xuân lòng, xuân tâm tưởng (Xuân không mùa). Với Xuân Diệu, ông không phân thời gian theo cách thông thường thành quá khứ – hiện tại – tương lại mà phân thời gian chỉ có hai thì: thời tươi và thời phai: Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng / Cho no nê thanh sắc của thời tươi; Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi / Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa…Có thể nói, tình nồng thắm làm nên thời tươi, tình lặng tắt làm nên thời phai..
3. Hệ thống hình tượng, hình ảnh và các mô típ nghệ thuật đặc trưng.
Thơ Xuân Diệu xây dựng được hình tượng một cái tôi độc đáo. Một cái tôi chủ động, mạnh mẽ, sôi nổi đến vồ vập trong tình yêu nhưng có khi lại cô độc (Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất / Không ai chi bè bạn nổi cùng ta), yếu đuối, buồn bã, đợi chờ, mong được ban phát tình yêu: Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi; Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ / Một giây cũng cam, một phút cũng đành. Một cái tôi vừa là tình nhân vừa là triết nhân. Cái tôi tình nhân gồm đủ hai con người: một gã tình si và một kẻ thất tình. Càng cuồng nhiệt, đam mê thì càng cô đơn, chỉ gặp lạnh lẽo, hững hờ: Lòng anh là một cơn mưa lũ / Đã gặp lòng em là lá khoai; Cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn… Con người triết nhân thì không vội vàng, mê mải yêu đương như con người tình nhân mà băn khoăn tìm bản chất, cội nguồn của tình yêu: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu; Yêu là chết ở trong lòng một ít…
Hình tượng tiêu biểu thứ hai trong thơ Xuân Diệu là hình tượng người tình. Người tình trong thơ Xuân Diệu không phải gái quê như trong thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử mà rất đài các, kiêu sa. Xuân Diệu tạo ra ở hình tượng giai nhân một điệu sống theo lối mới, với thủ pháp khắc hoạ mới: da thịt du dương, ngón tay thơ, xiêm nghê nổi gió lùa… Nàng hiện lên là một tình nhân đầy quyến rũ nhưng cũng hiện ra với một đối cực: giai nhân hờ hững: Đôi mắt của người yêu ôi vực thẳm / Ôi trời xa vừng trán của người yêu; Em đã xé lòng non cùng giấy mới…
Hình tượng cái tôi và hình tượng giai nhân đi đôi với nhau, có quan hệ luyến ái với nhau, và thế giới mà họ tồn tại là thế giới của tình ái. Hình tượng thế giới trong thơ Xuân Diệu hiện ra với hai diện mạo phổ biến: mảnh vườn tình ái và sa mạc cô liêu (, 52). Vườn là hình ảnh trở đi trở lại trong thơ Xuân Diệu và trong không gian của tình ái đó vạn vật, con người giao duyên với nhau: Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy / Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ / Nghiêng xuống đường rêu một lối đầy; Những tiếng ân tình hoa bảo gió / Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân; Gió xuân phơ phất bay vô ý / Đem đụng cành mai sát nhánh đào… Tương phản với vườn tình ái là sa mạc cô liêu – thế giới của cô đơn, bất hạnh, vạn vật li tán: Mà tình ái là sợi dây vấn vít / Mà cảnh đời là sa mạc vô liêu; Bãi xa cũng muốn làm sa mạc…
Đi cùng với ba hình tượng tiêu biểu là hai hệ thống hình ảnh đặc trưng trong thơ Xuân Diệu: đó là những hình ảnh đẹp, tràn đầy màu sắc, âm thanh, đường nét vui tươi: đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, ánh sáng chớp hàng mi, sự sống mơn mởn, cánh bướm, mùa xuân, ; và những hình ảnh gợi sự chia lìa, u buồn, gợi sự cô đơn, đơn độc: đàn buồn, đàn lặng, trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết, giá băng tràn mọi nẻo… Hình ảnh trong thơ văn Xuân Diệu tràn đầy ấn tượng và cảm giác, cảm giác của mọi giác quan.
Điểm độc đáo ở Xuân Diệu là nhiều hình ảnh quen thuộc, bao người đã sử dụng nhưng Xuân Diệu vẫn có cách viết của riêng mình, ví dụ hình ảnh đôi mắt trong bài thơ Hôn cái nhìn: Không phải anh hôn nơi mắt / Anh hôn cái nhìn của em / Mắt em một vừng yêu mến / Thắt anh trong lưới êm đềm; hay hình ảnh giọt lệ – Trái đất: Trái đất ba phần tư nước mắt / Đi như giọt lệ giữa không trung..
4. Phong cách nghệ thuật của nhà văn được thể hiện ở hệ thống phương thức biểu hiện, những thủ pháp, biện pháp quen dùng có hiệu quả, để lại dấu ấn riêng, in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
4.1. Hệ thống thủ pháp, biện pháp:
Thơ Xuân Diệu sử dụng với tần số cao biện pháp so sánh, ẩn dụ, đối lập, tạo được những liên tưởng kì thú.
Trước hết nói về so sánh: Xuân Diệu dùng so sánh khá nhiều. Có so sánh cụ thể: Lá liễu dài như một nét mi, có so sánh rất trừu tượng (Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền / Người vĩnh viễn như lòng trăng ý gió – Ca tụng). Đặc biệt so sánh trong thơ Xuân Diệu nghiêng nhiều về tả cảm xúc. Rất nhiều trạng thái cảm xúc trừu tượng qua so sánh trở nên cụ thể: Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp / Như túp nhà không bốn vách xiêu (Bên ấy bên này); Và đêm nay lòng tôi lạnh lẽo / Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ (Thở than).. Về ẩn dụ, đặc biệt trong thơ Xuân Diệu xuất hiện nhiều loại ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: nhạc thơm, nhạc hường… Về đảo ngữ, điều đặc biệt ở Xuân Diệu là ông thường đảo những tính từ, động từ, trạng thái chỉ cảm giác, cảm xúc lên trước để gây ấn tượng về cảm giác (Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió – Buồn trăng; Lạnh lẽo chân qua để bụi mờ / Thờ thẫn cây đa trên bến cũ – Buổi chiều)
4.2. Cách tổ chức kết cấu tác phẩm thơ và văn xuôi:
Cách cấu tứ bài thơ của Xuân Diệu cũng hết sức độc đáo, không giống ai. Chẳng hạn, ông tạo ra tứ: tấm kính giữa đôi ta, tưởng gần gũi nhưng lại là ngăn cách. Hay ở bài thơ Chầm chậm đừng quên, ông triển khai tứ: khi yêu nhau giữa hai người có những sợi dây vô hình ràng buộc và khi xa nhau cũng phải cởi cho hết từng sợi dây tình cảm và tránh sao khỏi những vết lằn đau cho da thịt…
Trong văn xuôi, Xuân Diệu sử dụng kĩ thuật cấu tứ, kĩ thuật điệp khúc, hình ảnh đầy chất thơ, kĩ thuật đưa đẩy bằng văn chương kim cổ, kĩ thuật dồn văn
5. Nói đến phong cách nghệ thuật không thể không nói đến ngôn ngữ và giọng điệu.
5.1. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ và văn xuôi của Xuân Diệu là một thứ ngôn ngữ thật mới.
Đặc biệt là lời thơ của Xuân Diệu thật lạ. Xuân Diệu đã đưa vào lời thơ một hệ thống từ vựng mới và cách sử dụng mới: đôi giếng mắt, mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân, chiều goá không em, trăng rộng quá, tháng giêng ngon như một cặp môi gần, Hạnh phúc vờn trong buổi nắng mai, nguy nga gió, uống tình yêu dập cả môi, long lanh tiếng sỏi…Những thứ trừu tượng không thể định lượng bỗng có hình hài, vóc dáng.
Cũng có khi Xuân Diệu dùng một từ rất cũ để diễn tả một cảm xúc rất mới, ví dụ: dùng từ chín bệ (vốn chỉ ngôi vua) để diễn tả cái cao cả của tình yêu lên ngôi: Rồi ngó mê nhau ta mỉm mắt cười / Và lặng lẽ thấy lòng cao chín bệ (Kỉ niệm); hay dùng những điển cố không theo lối mòn: Dương Quan…
Thơ Xuân Diệu không chỉ mới ở từ ngữ mà còn mới ở cách tổ chức câu thơ. Cấu trúc câu thơ mới mẻ táo bạo. Cách diễn đạt rất Tây: Đã nghe rét mướt luồn trong gió; Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Hơn một loài hoa đã rụng cành; Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm…
Xuân Diệu hay sử dụng lối câu vắt dòng, ý nghĩa của dòng này nối kết với ý nghĩa của dòng khác, đây là hiện tượng mới lạ của thơ ca đầu thế kỉ XX.
Câu thơ của ông đậm chất văn xuôi. Những quan hệ từ, hư từ: mà, tuy thế, vì vậy, cho nên, nhưng… xuất hiện dày đặc.
Có thể nói, cách diễn đạt của Xuân Diệu hiện đại mà rất tinh luyện. Câu chữ mới mẻ, vừa tiếp nhận văn hoá thẩm mĩ phương Đông, vừa ảnh hưởng văn hoá, thẩm mỹ phương Tây, tiếp thu thành công thuyết tương giao của Beaudelaire (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm…). Sự kết hợp giữa tính hiện đại và chất cổ điển chính là một nét phong cách độc đáo của Xuân Diệu.
5.2. Giọng điệu:
Giọng điệu thơ văn Xuân Diệu lúc mềm mại, đê mê, khi lả lơi sung sướng, lúc buồn bã tha thiết như tiếng thở than tận cõi sâu kín của tâm hồn, nhưng chủ yếu là giọng điệu sôi nổi, nồng nhiệt: Tôi muốn tắt nắng đi…; Tôi muốn buộc gió lại…
Không chỉ trước cách mạng mà cả sau này, thơ Xuân Diệu vẫn rất nồng nhiệt. Thơ tình yêu vẫn bộc lộ một niềm yêu thiết tha da diết, nhớ thương không cùng (Chẳng hạn ở bài thơ Biển: giọng điệu vẫn rất trẻ trung, nồng nhiệt. Giọng điệu ấy được thể hiện qua một loạt điệp từ, điệp âm… Nồng nhiệt từ đầu đến cuối bài thơ). Thơ cách mạng của Xuân Diệu mang âm hưởng hùng tráng, mang cảm hứng lãng mạn về Tổ quốc. Ngôn ngữ, nhịp điệu câu thơ đều thể hiện tình cảm thiết tha gắn bó với non sông đất nước. Giọng thơ sôi nổi đanh thép khi nói về quân thù, có sức lôi cuốn mạnh mẽ người đọc.
Giọng điệu nồng nhiệt ấy biểu hiện chủ yếu qua cách Xuân Diệu sử dụng lối trùng điệp và sử dụng những động từ chỉ hành động mạnh, những tính từ chỉ trạng thái đắm say, những thán từ…
II. Cái nhìn nghệ thuật - một phương diện chủ yếu của phong cách nghệ thuật nhà văn.
Cái nhìn của tác giả về con người và cuộc sống là một phương diện chủ yếu và quan trọng hơn cả của phong cách nghệ thuật. Bởi lẽ cái nhìn ấy chi phối toàn bộ hành trình sáng tạo của tác giả.
1. ở Xuân Diệu, trước hết đó là cái nhìn cuộc sống trẻ trung, xanh non qua các giác quan rộng mở (Sống toàn tâm toàn trí sống toàn hồn / Sống toàn thân và thức nhọn giác quan)
1.1. Với Xuân Diệu, cái đẹp của thế giới, của con người, của tình yêu phải là cái tươi nguyên, mới mẻ, đầu tiên. Chính quan niệm này đã tạo nên cái nhìn rất trẻ trung trong thơ ông.
Xuân Diệu hay nói đến Tình thứ nhất, Xuân đầu, Đêm thứ nhất, thanh tân, trinh bạch, mới nụ, ban sơ… Điều đó biểu hiện cho quan niệm: những gì mới mẻ, nguyên vẹn mới đẹp. Với ông, trời đất đẹp là đẹp ở cái son sẻ, trẻ trung: Son sẻ trời như mười sáu tuổi / Má hồng phơn phớt mắt long lanh (Rạo rực). Xuân Diệu say sưa ngây ngất với những vẻ đẹp ban đầu: Sao buổi đầu xuân êm ái thế; Say người như rượu tối tân hôn; Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Mười chín tuổi mặt trời đang óng ả / ánh sáng ca, lanh lảnh tiếng đời ngân / Bông hạnh cười; mười chín tuổi thanh tân / Gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc (Đẹp).
Có những cái không phải là đầu tiên, thứ nhất nhưng khi cần ca ngợi, Xuân Diệu đưa về ngôi thứ nhất cả: Đêm thứ bảy cũng là đêm thứ nhất (Đêm thứ nhất). Ông khoe: Thơ ta hơ hớ chưa chồng (Mùa thi). Ông ao ước: Hái một mùa hoa lá thủơ măng tơ (Giục giã).
Xuân Diệu viết nhiều về mùa xuân và mùa thu. Ông nói: “Với lòng tôi chỉ có hai mùa Xuân và Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh”. Xuân và Thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất của tâm hồn. Và bởi vậy Thu cũng là một mùa xuân. Đầu Xuân là bình minh ấm của lòng tôi, đầu Thu là bình minh mát của lòng tôi” (Thu, Trường ca). Như vậy, với Xuân Diệu, Xuân hay Thu phải là khi bắt đầu mới đẹp.
Xuân Diệu cũng là người viết nhiều về tuổi trẻ, vì trong quan niệm của ông, tuổi trẻ là nơi bắt đầu của đời người, và cũng chính là vẻ đẹp của cuộc đời. Ông ca ngợi tuổi trẻ: Phố đẹp, người xinh là đời bánh mật / Mặt tươi, môi đậm là gã trai tân / Rộn tuổi trẻ dưới ánh đèn ngây ngất / Reo ái tình trong nhịp máu phân vân (Đêm thứ nhất). Cái đẹp thanh khiết của tuổi trẻ làm ông ngây ngất: Em thảnh thơi như buổi sáng đầu ngày (Đẹp). Có thể nói, cái nhìn của Xuân Diệu rất đỗi trẻ trung, xanh non. Đối với thi sĩ phần ngon nhất của cuộc đời là mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Con người hạnh phúc nhất là ở tuổi trẻ với tình yêu.
1.2. Trái tim đa tình đã tạo ra ở Xuân Diệu một thứ nhãn quan riêng về thế giới khiến qua đôi mắt trẻ trung, xanh non của ông, thiên nhiên (trời đất, cỏ cây, sông núi..) hiện lên với vẻ đẹp thật tình tứ và đầy tính sắc dục. Ông nhìn đoá hồng nhung thành những cặp môi hôn và gọi là đoá hôn (Đoá hồng nhung). Nhìn phấn thông bay trong gió, ông thấy ái tình tản mạn ôm ấp không gian (Phấn thông vàng). Vầng trăng đối với Xuân Diệu là: trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ, gió trong thơ Xuân Diệu là gió canh khuya hay nghìn ngón tay ôm, hoa trong thơ ông thì không thể phân biệt được là hoa hay là những thiếu nữ đa tình (Nụ cười xuân, Lạc quan, Với bàn tay ấy, Hoa đêm); còn biển trong thơ Xuân Diệu đúng là một tình nhân đắm say: Anh xin làm bể biếc / Hôn mãi cát vàng em / Đã hôn rồi hôn lại / Cho đến mãi muôn đời / Đến tan cả đất trời / Anh mới thôi dào dạt (Biển).
Các tình cảm khác của con người ngoài tình yêu cũng qua đôi mắt trẻ trung và niềm khát khao giao cảm của Xuân Diệu mà được luyến ái hoá: Tình bằng hữu: Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương / Họ đi tay yếu trong tay mạnh / Nghe hát ân tình giữa gió sương… Không hề mặc cả, họ yêu nhau (Tình trai); tình cảm với cuộc đời: Tay ân ái như những làn thân thể / Đã ôm đời vào ngực để mơn ru; tình cảm với quần chúng: Trời ơi, quần chúng quá tình nhân!
1.3. Cũng qua cái nhìn trẻ trung, xanh non của Xuân Diệu mà thế giới thơ ông trở thành thế giới của sự sống tràn trề, mạnh mẽ, hăng say và đầy rạo rực. Xuân Diệu nhìn mọi sự vật, sự việc trong đời không đứng yên mà luôn luôn vận động, khiến cho thơ ông có những phát hiện mới mẻ. Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu là một thế giới động, rạo rực, không có gì đứng yên, từ ngọn gió cho đến ánh trăng, từ con đường cho tới hàng cây… Tất cả phải bùng lên trong khát khao được sống, được giao cảm. ánh trăng không lặng lẽ mà tỏ ngời (Trăng lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời – Nguyệt cầm), ngọn gió vô hình cũng hiện hình qua dáng xiêu xiêu (Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu – Thơ duyên).. Sự sống tuôn chảy dạt dào trong thơ Xuân Diệu.
2. Xuân Diệu nhìn nhận hạnh phúc là ở giữa trần gian, ngay trong hiện tại: Xuân Diệu hướng về sự sống chẳng bao giờ chán nản vì cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Với cái nhìn cuộc sống muôn màu muôn vẻ, Xuân Diệu thấy cuộc sống đẹp như thiên đường trên mặt đất: Của ong bướm này đây tuần tháng mật / Này đây hoa của đồng nội xanh rì / Này đây lá của cành tơ phơ phất / Của yến anh này đây khúc tình si (Vội vàng)
Vì vậy, nhà thơ luôn thiết tha gắn bó với cõi trần, với cuộc đời hiện tại. Nhà thơ đã mang lại một quan niệm nhân sinh mới: Hạnh phúc là ở giữa trần gian, ở ngay trong hiện tại (Khác với quan niệm nhân sinh của người xưa). Xuân Diệu sống với thì hiện tại mà ngày trước và ngày sau đều không đáng kể: Kể chi chuyện trước với ngày sau (Tình trai), Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai (Giục giã). Đối với các nhà thơ khác, hiện tại là những nấm mồ chôn tuổi trẻ: Và Hiện Tại, biết cùng chăng hỡi bạn / Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh (Những nấm mồ – Chế Lan Viên). Bao nhiêu người khác chối bỏ hiện tại, Thế Lữ thoát lên tiên, Vũ Hoàng Chương say, còn ở Thâm Tâm và Nguyễn Bính vang lên điệp khúc ra đi, ra đi. Chỉ có Xuân Diệu bám riết lấy hiện tại, lấy cõi trần. Đối với Xuân Diệu, khổ đau, buồn vui đều chìm đắm vào trong những phút giây mong manh của hiện tại. Ông rút gọn hiện tại vào phút, giây, lấy phút giây làm đại lượng đo đếm cảm xúc: Chim giữa nắng sao mà kêu đến chói / Ôi vô cùng trong một phút nhìn nhau (Xuân đầu); Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ (Yêu mến). Ông vĩnh viễn hoá hiện tại. Tôi muốn tắt nắng đi / Cho màu đừng nhạt mất / Tôi muốn buộc gió lại / Cho hương đừng bay đi (Vội vàng). Từ cái nhìn đó, từ quan niệm đó, Xuân Diệu có một thái độ sống tích cực, không thoát li hiện tại:
Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn (Vội vàng); Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn / Làm dây da quấn quýt cả mình xuân / Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần / Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất (Thanh niên); Đi sao được khi mặt trời vẫn nở? / Bỏ sao đang những mái ngói yên lành? / Đường rất lặng với hàng cây hay nhớ / Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn? (Từ biệt)
Hoài Thanh từng nhận xét: “Nếu Thế Lữ trốn lên tiên giới, thì Xuân Diệu lại đốt cảnh Bồng Lai mà xua ai nấy về hạ giới”. Thế Lữ cũng thừa nhận: “Lầu thơ của ông (Xuân Diệu) xây dựng trên mảnh đất của một tấm lòng trần gian”. Thơ Xuân Diệu chính là niềm thiết tha gắn bó với cuộc sống hiện tại của cõi trần.
3. Quan niệm thời gian tuyến tính, quan niệm thế giới đổi thay đã dẫn đến quan niệm sống vội vàng, sống sôi nổi, cuồng nhiệt ở Xuân Diệu.
Với Xuân Diệu, từng khắc từng giọt thời gian là cả một niềm se sót, nuối tiếc khôn cùng. Cảm thức thời gian của Xuân Diệu thật nhạy bén. Thi sĩ hiểu rằng không bao giờ giải quyết được mâu thuẫn giữa cái hữu hạn của đời người với cái vô hạn của thời gian (Vội vàng). Xuân Diệu ý thức sâu sắc về thời gian và có một quan niệm rất mới mẻ về thời gian. Với ông thời gian luôn một đi không trở lại, khác hẳn thời gian tuần hoàn trong văn học trước đây: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua / Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già / Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất (Vội vàng); Cái bay không đợi cái trôi / Từ tôi phút trước sang tôi phút này (Đi thuyền)..
Xuân Diệu luôn thấy xuân đang qua, tuổi trẻ đang mất, tình yêu đang phai tàn: Tóc ngời mai mốt không đen nữa / Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi (Hư vô); Tình yêu đến tình yêu đi ai biết (Giục giã)... Vì vậy Xuân Diệu lúc nào cũng vội vàng cuống quýt: Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ / Em em ơi, tình non sắp già rồi (Giục giã); Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm (Vội vàng); Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt / Những vườn xưa đã đoạn tuyệt dấu hài / Gấp đi em!Anh rất sợ ngày mai / Đời trôi chảy tình ta không vĩnh viễn (Giục giã)
Xuân Diệu nỗ lực chống lại sự trôi chảy của thời gian bằng cách: chạy đua với thời gian, tăng cường độ sống. Ông muốn sống nhanh, sống gấp, sống mạnh mẽ, muốn tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan.
Xuân Diệu muốn ôm lấy tất cả cuộc sống này, riết lấy tất cả trong đôi tay hăm hở của mình. Xuân Diệu luôn thể hiện một lòng yêu đời yêu cuộc sống đến đam mê và ông khát khao giao cảm mãnh liệt. Cảm xúc trong thơ văn ông lúc nào cũng sôi nổi, dạt dào, niềm ham sống sôi trào mãnh liệt, vồ vập đến tắc thở vẫn không đã, không thoả, ngay cả khi cận kề cái chết. Thi sĩ mang theo suốt cả đời một cơn khát lúc nào cũng thiêu đốt tâm can, đắm say, rạo rực, bồng bột, bạo liệt: “Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn / Làm dây da quấn quýt cả mình xuân / Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần / Chân bám rễ để hút mùa dưới đất….”
Xuân Diệu là một hồn thơ khát sống khát yêu, khát khao giao cảm tới cuồng nhiệt. Xuân Diệu khát sống đến cháy bỏng. Niềm yêu sống lúc nào cũng nồng nàn. Hoài Thanh: Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lạnh lẽo này. Xuân Diệu còn tự giới thiệu: Tôi là kẻ đưa răng bấu mặt trời / Kẻ đựng trái tim trìu máu đất / Hai tay chín móng bám vào đời (Hư vô). Xuân Diệu đắm say, ngất ngây với muôn ngàn biểu hiện của sự sống. Nhà thơ lăn xả vào cuộc đời mà sống. Ông kêu gọi: hãy nói, hãy kề, hãy khăng khít, hãy dâng, hãy yêu tôi…; ông bắt buộc phải nói, phải yêu, phải mặn nồng, phải ấm lên, ông khuyên chớ yên ổn như mặt hồ nước ngủ, chớ lạnh như đông, ông cầu xin xin chút lửa, xin chút thương; ông khao khát được ôm, được riết, được bấu, được say, được ghì, hút… Từ đó, ông đã đưa ra một triết lý sống tích cực, tiến bộ: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm; Sống toàn tâm toàn trí sống toàn hồn / Sống toàn thân và thức nhọn giác quan
Khát khao được sống, được giao cảm với cuộc đời của Xuân Diệu, nói như Thế Lữ, còn gì làm cho đầy đủ hơn là Xuân và Tình. Lê Đình Kỵ cũng nhận xét: lòng say mê yêu đời ở Xuân Diệu đã trút hết vào tình yêu và thiên nhiên. Đặc biệt là tình yêu. Tình yêu là biểu hiện tập trung nhất, mạnh mẽ nhất của lòng ham sống. Xuân Diệu đã sống để mà yêu và yêu để mà sống (Huy Cận). Xuân Diệu luôn muốn tạo nên một không khí yêu thương say đắm: Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới (Giục giã), luôn khao khát một tình yêu vô biên và tuyệt đích (Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân / Đem chim bướm thả trong vườn tình ái (Phải nói)…
4. Xuân Diệu có quan niệm tình yêu mới mẻ, đó là tình yêu của con người sống giữa đời chứ không phải tình yêu đạo đức trong sách vở. Có thể nói, Xuân Diệu là người đầu tiên trong thơ tình đã biểu hiện tính nhục dục và những thèm muốn nhục dục thật là lành mạnh và cường tráng: “Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực / Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài” (Xa cách). Đó là thứ tình yêu rất trần thế mà không bị trần tục hoá. Xuân Diệu là người đưa nhục thể vào thơ một cách đầy tinh tế. Trong thơ cổ mới chỉ dừng lại ở những hình ảnh mang tính chất ám tượng. Thơ mới buổi đầu cũng chưa có cảm giác này. Chỉ đến Xuân Diệu nhục thể trong tình yê mới được đưa vào táo bạo mà cũng đầy tinh tế. Ông diễn tả nhiều cảm giác mạnh bạo: muốn ôm, riết, say, cắn,… nhưng không gợi sự thô tục mà chỉ gợi cảm giác nồng nàn tha thiết của tình yêu: Nghiêng đầu bên trái hãy kề nghe / Những ngón tay thần sẽ vuốt ve / Cho điệu lòng anh thêm ấm dịu / Sờ xem ngực nóng khúc đê mê (Có những bài thơ). “Cảm xúc nhục thể trong thơ Xuân Diệu rất đời mà cũng rất thơ. Nó không thơ quá để đến mức chỉ là cảm xúc sách vở, nhưng cũng không đến mức đời quá để chỉ còn cảm giác xác thịt” (Lê Tiến Dũng, Nhà văn và phong cách, 35).
Sự lành mạnh trong quan niệm tình yêu còn thể hiện chính ở chỗ Xuân Diệu quan niệm tình yêu không chỉ là sự giao cảm xác thịt mà còn là sự giao cảm của những linh hồn: Trời cao trêu nhử chén xanh êm / Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm / Nên lúc môi ta kề miệng thắm / Trời ơi ta muốn uống hồn em (Vô biên). Đây là khát vọng cao nhất, cái đích cao nhất của tình yêu, cái tạo nên hạnh phúc của những đôi tình nhân chân chính. Có thể nói, Xuân Diệu luôn khao khát sự hoà hợp về tâm hồn. Do vậy khi không tìm thấy sự hoà hợp ấy, Xuân Diệu cảm thấy xa cách, cô đơn, hoài nghi: Dù tin tưởng chung một đời một mộng / Em là em, anh cứ là anh / Có thể nào quan Vạn Lí Trường Thành / Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật?; Giấu mãi, nghi hoài hay ghen bóng gió / Anh muốn vào dò xét giấc em mơ / Em giấu anh cả những chuyện không ngờ / Cũng như anh giấu em những điều quá thực.
Như vậy, phải đến Xuân Diệu, quan niệm tình yêu vừa trần tục vừa lí tưởng mới được cất lên tiếng nói của nó.
5. Xuân Diệu ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân hơn bất kì một nhà thơ Mới nào khác
Với Xuân Diệu, cái tôi đã thực sự được giải phóng. Nó không còn bỡ ngỡ, dè dặt như trước mà trở nên hết sức thành thật táo bạo khi thể hiện những cảm xúc cháy bỏng của nó. Qua thơ Xuân Diệu, ta thấy một cái tôi khát sống khát yêu đến cuồng nhiệt. Không triền miên sầu mộng như Lưu Trọng Lư, không hoài vọng, mơ màng, xa xăm như Huy Thông, Thế Lữ, không ảo não như Huy Cận… Xuân Diệu dường như đã huy động cả linh hồn và thể xác, và mọi giác quan để thể hiện xúc cảm của mình. Cái tôi cá nhân ấy được ý thức sâu sắc và mới mẻ hơn. Lần đầu tiên trên thi đàn, cái tôi tiểu tư sản mạnh dạn bày tỏ những tâm tư thầm kín, niềm yêu sống và những khát vọng không dứt. Vì thế, Xuân Diệu không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế hệ trước mà còn mới so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ có Xuân Diệu mới bộc lộ tương đối đầy đủ và tới độ những cái mới của Thơ Mới.
6. Xuân Diệu là nhà thơ của cảm xúc, cảm giác. Cái nhìn của ông đối với cuộc sống nghiêng về cảm xúc và cảm giác. Cảm xúc nồng nhiệt, cảm giác tinh tế giúp Xuân Diệp nói được những điều tế vi nhất, diễn tả được những sắc thái tâm trạng khó nắm bắt nhất.
ảnh hưởng chủ nghĩa tượng trưng Pháp, Xuân Diệu có sự cảm nhận tinh tế về cảm giác, khai thác ở cõi vô thức, tiềm thức. Ông ghi lại những biến thái mong manh, tế vi của ngoại cảnh và nội tâm: “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm…” (Nguyệt cầm), Thơ duyên… Xuân Diệu không chỉ tả cái thấy mà còn có hồn để tả đằng sau cái thấy, tả những rung động rất nhỏ, rất tinh tế ở bên trong sự vật (Con đường nhỏ nhỏ…), tả âm thanh qua đó tả những hình ảnh cảm giác gợi ra từ tiếng nhạc: Long lanh tiếng sỏi vang vang hận (Nguyệt cầm).
Thơ cổ chủ yếu cảm nhận thế giới bằng thị giác, thính giác và một ít khứu giác. Xuân Diệu cảm nhận thế giới bằng mọi giác quan: xúc giác, vị giác, khứu giác…Không chỉ mở rộng mà ông còn cấp cho giác quan những cảm giác rất mới mẻ: Xuân Diệu ngoài cái nhìn thị giác còn có cả cái nhìn xúc giác với mắt trao hôn, mắt mơn da..; buồn đến mức rợn da người – nỗi buồn đầy cảm giác.. Người xưa chỉ ngắm nhìn, hoặc ao ước hoà nhập vào cùng trời đất thì Xuân Diệu muốn kéo cả thế giới vào vòng tay đầy cảm giác của mình với những ôm, riết, say, thâu, cắn. Những động từ cảm giác mà thường là cảm giác mạnh tạo nên cái ào ạt, mạnh mẽ trong thơ ông. Với những vần thơ đầy cảm giác như thế, Xuân Diệu đã mang đến cho thơ cái nồng nàn, mạnh mẽ, tươi rói của cuộc đời.
Ông còn chú ý đến sự tương ứng giữa các giác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DK thay Xuyen.doc