Tiểu luận Chế định đại diện trong luật dân sự

MỤC LỤC

Nội dung Trang

I.Đặt vấn đề 2

II.Giải quyết vấn đề

1.Khái niệm và đặc điểm của đại diện, ý nghĩa pháp lý của đại diện

a.khái niệm 2,3

b.đặc điểm 3, 4

c.ý nghĩa pháp lý 4

2.Các hình thức đại diện

a.Hình thức đại diện theo pháp luật 4,5,6

b.Hình thức đại diện theo ủy quyền 6,7,8

3.Phạm vi đại diện

a.Khái niệm 8

b.Ý nghĩa pháp lý của phạm vi đại diện 8,9

c.Phạm vi thẩm quyền đại diện trong các trường hợp quan hệ đại diện 9,10,11

d.Trường hợp không có thẩm quyền đại diện và vượt quá phạm vi thẩm quyền đại diện 11,12,13

4.Chấm dứt đại diện

a.Chấm dứt đại diện theo pháp luật 13,14,15

b.Chấm dứt đại diện theo ủy quyền 15,16,17,18

III.Kết luận 18

Danh mục tài liệu tham khảo 19

 

docx19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3272 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chế định đại diện trong luật dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được địa diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lí từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện, người được đại diện rất đa dạng, có thể là các cá nhân không có năng lực hành vi, người mất năng lực hành vi dân sự (như người bị bệnh tâm thần nên không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình), người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (vì các lí do nhất định nên bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự), kể cả các cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi cũng có thể ủy quyền cho người khác là đại diện theo ủy quyền của mình nhưng cá nhân sẽ không được người khác đại diện cho mình trong trường hợp pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập thực hiện giao dịch đó. b. Đặc điểm: Ngoài các đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự thì quan hệ đại diện có những đặc điểm riêng như sau: - Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song là quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện (quan hệ bên trong), quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba (quan hệ bên ngoài). - Người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người được địa diện chứ không phải nhân danh họ. Trước khi giao dịch dân sự được lập ra, người đại diện phải giới thiệu tư cách pháp lí của mình với người thứ ba để người này hiểu hai vấn đề: thứ nhất ai sẽ là người trao đổi lợi ích hay chịu trách nhiệm về hậu quả của giao dịch với họ; thứ hai là thẩm quyền của ngươi đại diện đến đâu, người được đại diện như đã nói ở trên có rất nhiều trường hợp nên phải xác định rõ thẩm quyền, quan hệ của người đại diện với người được đại diện có thể là cha mẹ với con chưa thành niên, người đại diện cho người bị mất năng lực hành vi,… hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền là bằng chứng cho quan hệ đại diện theo pháp luật. - Mục đích người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là vì lợi ích của người đại diện – quyền và lợi ích của trong quan hệ với người thứ ba được chuyển cho người đại diện. Lợi ích của người đại diện thì được xét trong quan hệ đại diện, tùy theo các trường hợp đại diện và theo thỏa thuận giữa bên đại diện và bên được đại diện mà người đại diện có thể chỉ có nghĩa vụ hoặc có thể được hưởng thù lao. - Người đại diện tuy nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của họ bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật nhưng họ vẫn có sự chủ động trong khi tiến hành các công việc cần thiết để đạt được mục đích là vì lợi ích của người được đại diện. c. Ý nghĩa pháp lý của đại diện: Đại diện có ý nghĩa rất quan trọng trong nhiều trường hợp giao dịch, không phải chủ thể nào cũng có thể tự mình thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. Có thể do nhiều nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan mà cá nhân có thể bị hạn chế năng lực hành vi hoặc không có năng lực hành vi, hình thức đại diện theo pháp luật sẽ là một giải pháp giúp họ vẫn được hưởng mọi lợi ích từ các giao dịch thông thường qua người đại diện, những lợi ích mà họ đáng được nhận. Chủ thể trong giao dịch dân sự còn có thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác,.. là những chủ thể mà quyền lợi mang tính cộng đồng, việc giao dịch bắt buộc phải thông qua hành vi con người. Do đó, chế định đại diện tạo điều kiện và đem lại lợi ích tốt nhất cho các chủ thể ngoài cá nhân. Các hình thức đại diện Có hai hình thức đại diện trong pháp luật dân sự là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Mỗi hình thức đại diện có những yếu tố và đặc điểm riêng, cụ thể như sau: Hình thức đại diện theo pháp luật: Điều 140 BLDS 2005 quy định: đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Căn cứ để hình thành nên quan hệ đại diện này là do ý chí của Nhà nước. HÌnh thức đại diện này được pháp luật quy định mối quan hệ đại diện được xác lập tồn tại có sẵn chứ không phụ thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể. Chủ thể trong quan hệ đại diện theo pháp luật cần thỏa mãn các điều kiện cụ thể sau: - Người được đại diện nếu là cá nhân thì phải là người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, họ là đối tượng được pháp luật bảo vệ bởi bản thân họ không trực tiếp tham gia vào bất kỳ giao dịch nào nên pháp luật phải quy định sẵn những chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Các chủ thể còn lại là một tổ chức nên khi tham gia vào các giao dịch dân sự bắt buộc phải thông qua người đại diện cụ thể. - Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Các căn cứ để nhận biết các quan hệ đại diện theo pháp luật đang tồn tại là: Chủ thể trong quan hệ đại diện theo pháp luật gồm có hai nhóm: • Các chủ thể trong trường hợp đại diện được quy định theo pháp luật chung là đại diện mặc nhiên, ổn định về người đại diện, về thẩm quyền đại diện: Cha, mẹ đại diện cho con vị thành niên. Người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân Người giám hộ đương nhiên đại diện cho người được giám hộ (Điều 61, 62 BLDS 2005). Ví dụ: Nguyễn Văn A 15 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ, chỉ còn có anh trai là Nguyễn Văn B 25 tuổi (thỏa mãn điều kiện làm người giám hộ), B sẽ đại diện cho A trong mọi giao dịch dân sự của A. Chủ hộ đối gia đình đối với hộ gia đình,… • Các chủ thể trong trường hợp đại diện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Người giám hộ đối với người được cử giám hộ (điều 63 BLDS 2005) Ví dụ: Cháu X 10 tuổi có bố mẹ vừa qua đời trong một vụ tai nạn, X lại không có anh chị em, bà con thân thích. Ủy ban nhân dân xã Y nơi gia đình cháu X sinh sống cử Anh Z (thỏa mãn điều kiện làm người giám hộ) làm người giám hộ cho X. Người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người được đại diện nếu là cá nhân thì phải là người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Các căn cứ để nhận biết các quan hệ đại diện theo pháp luật đang tồn tại là: Căn cứ vào giấy khai sinh của con chưa thành niên để biết ai là người đại diện theo pháp luật Căn cứ quyết định của Tòa án khi tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự để biết ai đại diện cho người này Căn cứ vào Sổ hộ khẩu của gia đình để biết người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình Căn cứ vào hợp đồng hợp tác có xác nhận của UBND xã phường để biết ai là người đại diện cho tổ hợp tác Căn cứ vào đăng kí kinh doanh, Điều lệ hay Quyết định thành lập pháp nhân để biết ai là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân Hình thức đại diện theo ủy quyền: Khoản 1, Điều 142 BLDS 2005 quy định: “đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”. Khác với đại diện theo pháp luật là do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, đại diện theo ủy quyền là trường hợp quan hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên: bên đại diện và bên được đại diện, biểu hiện qua một hợp đồng ủy quyền hoặc một giấy ủy quyền, điểm khác nữa là hai bên chủ thể của quan hệ đại diện theo ủy quyền phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 143 BLDS 2005: “Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện”. Đại diện theo ủy quyền được chia ra thành đại diện theo ủy quyền của cá nhân và đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Vì những lí do chủ quan hay khách quan cá nhân có thể thông qua người khác để xác lập các giao dịch dân sự. Người khác ở đây có thể là pháp nhân (ví dụ cá nhân ủy quyền cho một công ty tư vấn về luật đứng ra ký kết hợp đồng mua xe ô tô cho họ), hoặc có thể là cá nhân (ví dụ X ủy quyền cho Y đứng ra ký kết hợp đồng thuê nhà ở). Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân – quy định tại Khoản 1 Điều 143 BLDS 2005: cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự Đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình – quy định tại Khoản 1 Điều 107 BLDS 2005 “… chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự” Đại diện theo ủy quyền của tổ hợp tác – quy định tại Khoản 1 Điều 113 BLDS 2005 “Tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cho tổ” Trong 3 loại đại diện theo ủy quyền này thì chỉ có hình thức đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là pháp luật không chỉ ra phạm vi cụ thể những người được ủy quyền, còn trong hai hình thức đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình và tổ hợp tác thì có chỉ rõ phạm vi người được ủy quyền chỉ có thể là người trong gia đình hay trong tổ mà thôi. Ủy quyền là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, đảm bảo thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm. Ngoại lệ, có một số trường hợp pháp luật không cho phép xác lập giao dịch thông qua người đại diện (bất kể là đại diện theo pháp luật hay theo ủy quyền) như việc lập di chúc. Phạm vi đại diện a. Khái niệm: Phạm vi đại diện là giới hạn quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong việc nhân danh người được đại diện xác lập và thực hiện giao dịch với người thứ ba. b. Ý nghĩa pháp lý của phạm vi đại diện: Thứ nhất, về nguyên tắc, theo Khoản 3 Điều 144 BLDS 2005 quy định: “người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” và qua đó mới làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người được đại diện với người thứ ba. Trường hợp người đại diện có lỗi trong khi thực hiện việc đại diện nhưng trong phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người thứ ba thì trách nhiệm vẫn thuộc về người đại diện. Người đại diện có lỗi sẽ phải chịu trách nhiệm độc lập đối với người được đại diện. Như vậy, trách nhiệm giữa các bên quan hệ người đại diện – người được đại diện, người đại diện – người thứ ba độc lập hoàn toàn. Thứ hai, người thứ ba phải biết rõ về phạm vi thẩm quyền đại diện bởi họ đang xác lập, thực hiện giao dịch một cách gián tiếp với chủ thể phía bên kia trong quan hệ. Ví dụ: X có chiếc xe ô tô đã sử dụng được 1 năm, X muốn bán xe ôt ô để lấy tiền mua nhà nên X ủy quyền cho Y kí hợp đồng bán xe ô tô, nhưng X không ủy quyền cho Y thực hiện hợp đồng, cụ thể là việc nhận tiền bán xe, chuyển giao xe cho bên mua, chuyển giao các loại giấy tờ liên quan đến chiếc xe. Z là người mua xe ô tô của X, Z cần phải biết rõ phạm vi đại diện của Y để tránh trường hợp Z cứ giao tiền cho Y thì X có quyền không giao xe và giấy tờ, Y sẽ phải đi đòi Z. Thứ ba, phạm vi đại diện còn là căn cứ để xem xét tính hiệu lực của một số giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện. Khoản 5 Điều 144 BLDS 2005 quy định: “người đại diện không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Ví dụ: A ủy quyền mua nhà cho C, B ủy quyền bán nhà cho C, C không được phép đại diện A mua nhà của B. Quy định này nhằm ngăn ngừa và loại trừ những giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện có thể đem lại hậu quả bất lợi cho người được đại diện. Trường hợp pháp luật có quy định khác có thể kể đến Khoản 3 Điều 69 BLDS 2005 quy định: “các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ” Phạm vi thẩm quyền đại diện trong các trường hợp quan hệ đại diện: Tùy thuộc vào quan hệ đại diện là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền, phạm vi thẩm quyền đại diện được xác định khác nhau • Đối với đại diện theo pháp luật: Khoản 1 Điều 144 BLDS 2005 quy định “người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện”. Như vậy, pháp luật cho phép người đại diện theo pháp luật có quyền chủ động tối đa trong việc lựa chọn, xác lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến người được đại diện nhưng phải xuất từ lợi ích của người được đại diện. Vậy nên nếu xảy ra khiếu kiện thì chính người đại diện phải tự chứng minh giao dịch đó là vì lợi ích của người được đại diện. Cha mẹ thì gần như luôn luôn xác lập những giao dịch để mang lại lợi ích cho con chưa thành niên nhưng nếu có sự chứng minh về sự lạm quyền của cha mẹ gây thiệt hai cho con thì giao dịch do cha mẹ đã xác lập cũng bị tuyên bố vô hiệu. Trong trường hợp đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có một số đặc biệt riêng. Chính người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng nhưng với sự chấp nhận của người đại diện. Người đại diện chỉ đóng vai trò giám sát, đồng ý hay không đồng ý cho xác lập giao dịch. Nếu như giao dịch đó không làm ảnh hưởng đến lợi ích của chính người đại diện, của những người thân thích trong gia đình của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện cho phép người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện giao dịch. • Đối với đại diện theo ủy quyền: Khoản 2 Điều 144 BLDS quy định “phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền”. Như vậy người được ủy quyền chỉ được thực hiện hành vi pháp lí trong khuôn khổ văn bản ủy quyền quy định, có thể là hợp đồng ủy quyền hay giấy ủy quyền. Thẩm quyền của người được ủy quyền có thể chỉ là thực hiện một công việc như là kí kết hợp đồng nhưng cũng có thể là cả kí kết hợp đồng lẫn thực hiện một loạt công việc liên quan như giao nhận tiền, hàng, thanh lí hợp đồng,… Ví dụ: công ty A là công ty tư vấn luật được ông B ủy quyền thỏa thuận kí kết hợp đồng mua bán nhà cho ông B, công ty A chỉ có quyền kí kết hợp đồng chứ không có các quyền làm các việc khác liên quan như giao nhận tiền, giấy tờ nhà đất. Nếu được sự đồng ý của người được đại diện thì người đại diện có thể ủy quyền lại cho người khác. Nếu trong hợp đồng ủy quyền chỉ ghi cho phép người được ủy quyền có thể ủy quyền lại cho người khác nếu thấy cần thiết thì người được ủy quyền vẫn bị ràng buộc trách nhiệm ở vị trí trung gian. Nếu người ủy quyền đồng ý cho người được ủy quyền lại cho một người cụ thể đã được ủy quyền kiểm tra các yếu tố về nhân thân, khả năng tài chính, toàn bộ nội dung của quan hệ ủy quyền thì coi như một quan hệ chuyển giao quyền và nghĩa vụ được xác lập. Theo đó, người được ủy quyền sẽ lại chịu trách nhiệm trực tiếp trước người ủy quyền và quan hệ của người được ủy quyền chấm dứt. Trường hợp không có thẩm quyền đại diện và vượt quá phạm vi thẩm quyền đại diện Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập thực hiện phải phù hợp với ý chí và lợi ích của người được đại diện nên giao dịch dân sự đó sẽ chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện, nhưng có những trường hợp mà việc đại diện vượt quá phạm vi thẩm quyền đại diện hoặc không có thẩm quyền đại diện nhưng vẫn được xem xét: • Nếu giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện thì sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện. Tuy nhiên, nếu như sau đóBLDS 2005 người được đại diện đồng ý chấp nhận giao dịch đó thì vẫn mang lại quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện, người đã giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời hạn ấn định. Nếu hết thời hạn ấn định mà không trả lời thì giao dịch đó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện. Ví dụ: ông A là trưởng phòng kinh doanh trong công ty cổ phần X, ông A đứng ra kí hợp đồng bán lô hàng trị giá 3 tỷ đồng cho công ty Y, trong khi công ty cổ phần X không quy định ông A là người đại diện của công ty. Việc ông A kí kết hợp đồng bán lô hàng trên không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ cho công ty X. Công ty Y sau khi phát hiện ra sự việc đã gửi thông báo cho giám đốc và hội dồng quản trị của công ty X biết để xem họ có chấp nhận hợp đồng đã kí kết với ông A hay không. Nếu như giám đốc công ty và hội đồng quản trị thống nhất là chấp nhận hợp đồng ông A đã kí kết thì hợp đồng đó vẫn coi như là của công ty X, còn nếu họ không chấp nhận hợp đồng thì hợp đồng đó hoàn toàn không có liên quan đến công ty X. Trong trường hợp người được đại diện hay người đại diện của người này không chấp nhậ hợp đồng do người không có thẩm quyền đại diện kí thì mặc dù hợp đồng đó không có giá trị đối với người được đại diện nhưng giá trị của hợp đồng đã ký kết có giá trị thi hành hay không lại tùy thuộc vào quyền quyết định của người đã giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện. Nếu người đã giao dịch có căn cứ để biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện nhưng vẫn xác lập giao dịch thì giao dịch đó không có hiệu lực bởi vì sự cố ý của cả hai bên về việc vi phạm nguyên tắc trung thực khi giao kết hợp đồng. Còn nếu họ không biết hoặc không thể biết về việc không có thẩm quyền đại diện thì sẽ có hại sự lựa chọn đặt ra: Chấp nhận giao dịch đã xác lập với người không có thẩm quyền đại diện và có yêu cầu người không có thẩm quyền đại diện thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng đối với mình. Như vậy, người không có thẩm quyền vẫn chịu trách nhiệm đối với giao dịch mà mình đã xác lập với người khác. Có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch đã xác lập và yêu cầu người không có thẩm quyền đại diện phải bồi thường thiệt hại cho mình. Nếu giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần vượt quá phạm vi đại diện. Tuy nhiên, nếu người được đại diện sau này đồng ý chấp nhận phần giao dịch vượt quá này hoặc biết mà không phản đối khi giao dịch đó được xác lập thì giao dịch đó vẫn có giá trị đối với người được đại diện. Mặc dù giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện nhưng vẫn có giá trị pháp lý đối với người đã xác lập thực hiện giao dịch trong trường hợp họ không biết hoặc không thể biết về việc vượt quá phạm vi đại diện này, lúc này họ cũng có hai lựa chọn: Yêu cầu người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch và yêu cầu bồ thường thiệt hại. Trường hợp nếu người đã xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi thẩm quyền mà vẫn xác lập giao dịch thì giao dịch đó sẽ vô hiệu; nếu gây thiệt hại cho người đại diện thì người đại diện vượt quá phạm vi đại diện và người đã xác lập giao dịch phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Chấm dứt đại diện: Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan hệ đại diện không tồn tại mãi mà nó sẽ chấm dứt khi xảy ra những sự kiện pháp lí nhất định. Nếu quan hệ đại diện theo ủy quyền đã chấm dứt mà người đại diện vẫn nhân danh người được đại diện để xác lập thực hiện các giao dịch dân sự thì hậu quả pháp lí xảy ra sẽ được giải quyết theo các quy định của pháp luật về thực hiện các công việc của người khác không có ủy quyền. Còn nếu quan hệ đại diện theo pháp luật đã chấm dứt thì mọi giao dịch do người đại diện trước đây xác lập kể từ thời điểm chấm dứt đại diện đều vô hiệu. Như vậy khi chấm dứt đại diện, mọi hậu quả pháp lí phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện đều không có giá trị pháp lí đối với người được đại diện. Các hình thức đại diện được chấm dứt trong các trường hợp sau: Chấm dứt đại diện theo pháp luật: • Chấm dứt đại diện theo pháp luật của cá nhân: Khoản 1 Điều 147 BLDS 2005 quy định các trường hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt: *Người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi đã khôi phục. Khi người đó chưa thành niên hoặc vì một lí do nào đó bị hạn chế hoặc mất đi năng lực hành vi thì cần có người đại diện mình trong các giao dịch dân sự. Nhưng sau khi họ đã thành niên hoặc năng lực hành vi của họ đã được khôi phục thì họ hoàn toàn có đầy đủ năng lực và tư cách trong các giao dịch dân sự. Ví dụ: A mồ côi cha mẹ từ khi còn bé và được người bác (anh ruột của bố) làm người đại diện, sau khi A đã thành niên (đủ 18 tuổi trở đi) thì bác của A không còn là người đại diện của A nữa. * Người được đại diện chết: tư cách chủ thể của mọi quan hệ pháp luật khi một người chết sẽ chấm dứt, quan hệ đại diện cũng là một quan hệ pháp luật nên khi di nhiên cũng sẽ bị chấm dứt. * Các trường hợp khác do pháp luật quy định: các trường hợp khác có thể có lí do xuất phát từ phía người đại diện, ví dụ như người đại diện bị mất năng lực hành vi dân sự, phải chấp hành hình phạt tù,… • Chấm dứt đại diện theo pháp luật của pháp nhân Khoản 1 Điều 148 BLDS quy định: “đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt”. Pháp nhân có thể chấm dứt vì nhiều nguyên nhân: Pháp nhân bị Tòa an ra quyết định tuyên bố phá sản, pháp nhân có quyết định giải thể hoặc bị hợp nhất, chia tách,… • Chấm dứt đại diện của tổ hợp tác và hộ gia đình: Có hai nhóm nguyên nhân dẫn đến quan hệ đại diện của gia đình và tổ hợp tác chấm dứt: thứ nhất là do hộ gia đình hoặc tổ hợp tác đó chấm dứt sự tồn tại; thứ hai có thể xuất phát từ chủ hộ hoặc tổ trưởng tổ hợp tác. Chủ hộ, tổ trưởng tổ hợp tác nếu như vì lí do nào đó dẫn đến không có đủ điều kiện làm người đại diện theo pháp luật (có thể là bị tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự); hoặc đối với tổ hợp tác khi mà tổ trưởng ra khỏi tổ hợp tác thì theo thỏa thuận của các tổ viên tổ hợp tác tổ viên khác sẽ được thay thế vào vị trí tổ trưởng đó. Như vậy, hình thức đại diện theo pháp luật sẽ chấm dứt khi chủ thể được đại diện không còn là đối tượng cần được pháp luật bảo vệ nữa như khi cá nhân đã có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi hoặc khi cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác không còn tồn tại. Đối với trường hợp người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình, tổ hợp tác, pháp nhân không còn đủ điều kiện đại diện thì sẽ có các chủ thể khác thay thế vị trí của họ. Ví dụ: ông Nguyễn Văn X là chủ hộ của hộ gia đình gồm có ông X và vợ cùng 3 đứa con. Ông X vì có hành vi vi phạm luật hình sự nên phải chấp hành án phạt tù, ông X đã không còn là người đại diện cho hộ gia đình nữa mà lúc đó bà vợ của ông sẽ là chủ hộ gia đình thay ông. Chấm dứt đại diện theo ủy quyền: Đối với cá nhân: Khoản 2 Điều 147 BLDS 2005 quy định: “Đại diện theo ủy quyền của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Thời hạn quỷ quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành. Về thời hạn ủy quyền, nếu như các bên không có thỏa thuận cụ thể về thời hạn ủy quyền hoặc pháp luật cũng không có quy định thì thời hạn ủy quyền là một năm kể từ ngày xác lập quan hệ ủy quyền. Trong thời hạn của quan hệ ủy quyền mà công việc được ủy quyền đã hoàn thành thì quan hệ đại diện cũng chấm dứt bởi mục đích của các bên đã đạt được nhưng nếu như thời hạn ủy quyền đã hết mà công việc được ủy quyền cũng chưa hoàn thành thì cũng chấm dứt quan hệ ủy quyền. Vì thế nên các chủ thể sẽ phải thật cân nhắc về thời hạn ủy quyền khi thỏa thuận để tránh bị thiệt hại về quyền lợi Người ủy quyền hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền. Việc chấm dứt này là do ý chí của một trong hai bên chủ thể nên nếu việc chấm dứt có gây thiệt hại đến chủ thể phía còn lại thì phía bên kia phải có trách nhiệm bồ thường thiệt hại. Ví dụ: anh A ủy quyền cho anh B đứng ra bán căn hộ chung cư của anh A, anh A thỏa thuận sẽ trả cho anh B 1 triệu đồng tiền thù lao giao tiền luôn cho B khi viết giấy ủy quyền nhưng sau đó khi chưa thực hiện hết công việc ủy quyền anh B đã đơn phương chấm dứt, từ bỏ việc ủy quyền nên anh B đã phải trả lại toàn bộ số tiền 1 triệu đồng tiền thù lao. Người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. Như vậy, một trong hai bên trong quan hệ không đáp ứng được các điều kiện của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự thì quan hệ đó chấm dứt. Quan hệ ủy quyền gắn với nhân thân nên các quyền và nghĩa vụ của họ không dịch chuyển cho những người thừa kế mà sẽ chấm dứt luôn khi người được ủy quyền, người ủy quyền chết. Khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, người đại diện phải thanh toán xong các nghĩa vụ tài sản với người được đại diện hoặc với người thừa kế của người được đại diện. Các trường hợp chấm dứt đại diện theo ủy quyền của cá nhân và pháp nhân là tương đối giống nhau, trường hợp chấm dứt theo ủy quyền của pháp nhân quy định tại Khoản 2 Điều 148 BLDS 2005: Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành. Thời hạn ủy quyền và công việc được ủy quyền được thỏa thuận và quy định trong giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxChế định đại diện trong luật dân sự.docx
Tài liệu liên quan