Tiểu luận Chế dộ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam

Trong thời kỳ pháp thuộc, luật pháp về dân sự ở Việt Nam mang đậm dấu ấn của Bộ luật dân sự Napoléon. Trong ba bộ dân luật được áp dụng ở ba miền bắc, trung, nam, Bộ dân luật bắc và Bộ dân luật trung đã ghi chép những nguyên tắc cơ bản của BLDS Pháp như : quyền tự do lập hôn ước và tính chất không thay đổi của chế độ hôn sản. Khác với BLDS Pháp, hai Bộ dân luật này chỉ dự liệu một chế độ chung để áp dụng cho những vợ chồng không lập hôn ước, mà không đề xuất những chế độ để vợ chồng có thể thỏa thuận lựa chọn[10]. Thực tế, những quy định này đã được thực hiện ở Việt Nam trong khoảng 20 năm.

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chế dộ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong hôn ước của vợ chồng không phải là không có giới hạn. Gia đình trong xã hội Pháp, cũng giống như ở nhiều nước khác, phản ánh tính chất cộng đồng, vì thế chế độ tài sản pháp định của vợ chồng ở Pháp, từ khi có Bộ luật Napoléon đều là các chế độ cộng đồng tài sản [7]. Luật hiện hành của Cộng hòa Pháp về các chế độ tài sản của vợ chồng không phải chỉ quan tâm đến lợi ích của các bên vợ, chồng, mà trái lại, luôn đề cao những trật tự của gia đình. Điều đó thể hiện thông qua việc nhà làm luật thiết lập hệ thống những quy định, theo đó, tất cả những thỏa thuận của vợ chồng về tài sản phải tuân theo. Trong các điều 1388 và 1389 của BLDS, nhà lập pháp đã quy định rằng : vợ chồng không thể thỏa thuận phá bỏ những quy định về các nghĩa vụ và quyền của họ (phát sinh từ việc kết hôn), về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con, về quản lý theo pháp luật, về giám hộ, cũng như về trật tự thừa kế. Về nguyên tắc, những điều khoản của hôn ước trái với những quy định này sẽ bị tuyên bố vô hiệu. Những thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản chịu sự điều chỉnh trực tiếp nhất bởi các quy định về nghĩa vụ và quyền của họ. Tại các điều từ 212 đến 226, BLDS đã quy định những nghĩa vụ và quyền riêng biệt của vợ và chồng với một tinh thần chung nhất là : vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia đình về tinh thần và vật chất, chăm lo việc dạy dỗ con cái và chuẩn bị tương lai của chúng (điều 213). Đặc biệt, các điều từ 214 đến 226 tập hợp nên một chế định pháp lý mà học thuyết của Pháp gọi là chế độ cơ sở của các chế độ tài sản của vợ chồng (Le régime primaire hoặc Le statut de base). Đây là những quy định về các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống gia đình. Đó là những vấn đề : đóng góp vào việc chi tiêu của gia đình ; bảo vệ chỗ ở của gia đình ; quyền tự chủ của mỗi bên vợ, chồng thực hiện các giao dịch vì nhu cầu của gia đình và trách nhiệm liên đới của bên kia, quyền tự chủ về nghề nghiệp, về việc sử dụng tài khoản (ngân hàng và chứng khoán) ; quyền một mình thực hiện giao dịch thông qua cơ chế đại diện hoặc cho phép của Tòa án…Theo quy định của điều 226, các quy định trên có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ đạo, nhất là đối với các chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự ổn định của cuộc sống gia đình. Do có tầm quan trọng như vậy, tất cả các nghiên cứu về các chế độ tài sản của vợ chồng theo luật của Pháp đều bắt đầu từ chế độ cơ sở này. Như vậy, sự tổ chức các chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa Pháp dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng nhưng không tách rời nghĩa vụ của họ đối với đời sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ, chồng có thể thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản thân, mang lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ chồng. Trong thực tế, mặc dù số lượng các cặp vợ chồng lập hôn ước chiếm tỉ lệ rất thấp (khoảng 20%), nhưng các chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng vẫn luôn tồn tại cùng với quan niệm về quyền tự do cá nhân và vì sự cần thiết của nó trong những trường hợp nhất định. 1.2.3. Những chế độ tài sản được dự liệu và những ưu, nhược điểm của nó a. Chế độ cộng đồng đối với động sản và những tạo sản Chế độ tài sản này xác định cộng đồng tài sản gồm những động sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn và những tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, những động sản mà cần xác định là tài sản riêng do bản chất của nó theo quy định của điều 1404 BLDS và những tài sản mà vợ chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng (do ý chí rõ ràng của người tặng cho, người để lại tài sản thừa kế) vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng. Phần nợ của cộng đồng tài sản gồm phần nợ của mỗi bên vợ chồng có trước khi kết hôn (theo tỉ lệ động sản đã đưa vào trong phần có của cộng đồng tài sản) và những khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân (gồm cả những khoản nợ liên quan đến tài sản mà cộng đồng có được do vợ chồng được tặng cho hoặc được thừa kế). Việc thực hiện chế độ tài sản này khá phức tạp. Nếu vợ chồng không có những thỏa thuận khác, họ phải tuân theo những quy định về quản lý tài sản và thanh toán tài sản được dự liệu trong chế độ hôn sản pháp định. Vì thế, đây là một chế độ tài sản không được khuyên dùng (không phải chỉ riêng ở Pháp), bởi tính phức tạp của nó, trong khi sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản thường hướng tới một sự đơn giản. b. Chế độ cộng đồng toàn sản Chế độ cộng đồng toàn sản xác định tất cả các tài sản mà vợ chồng có trước và sau khi kết hôn đều thuộc sở hữu chung, trừ những tài sản riêng do bản chất của nó theo quy định của điều 1404 BLDS. Tuy nhiên, vợ chồng có thể thỏa thuận những tài sản này thuộc về cộng đồng tài sản. Phần nợ của cộng đồng tài sản bao gồm tất cả những khoản nợ phát sinh trước và sau khi kết hôn. Chế độ cộng đồng toàn sản có ưu điểm là tính đơn giản trong việc xác định tính chất của tài sản cũng như những khoản nợ và mang đậm tính cộng đồng trong gia đình. Thực tiễn đã phản ánh rằng, khi thay đổi chế độ tài sản, chế độ cộng đồng toàn sản đứng ở vị trí thứ hai trong số những chế độ được lựa chọn thường xuyên (sau chế độ tách riêng tài sản)[8]. Chế độ này cũng thường được lựa chọn bởi những vợ chồng cao tuổi, không có con và được kết hợp với một điều khoản về trao toàn bộ cộng đồng tài sản cho người vợ (chồng) còn sống. Tuy nhiên, cũng giống như chế độ cộng đồng động sản, nếu vợ chồng không dự liệu những quy định riêng về quản lý tài sản và thanh toán tài sản, họ sẽ phải tuân theo những quy định của chế độ hôn sản pháp định, và trong trường hợp đó, thậm chí, vợ chồng có ít hơn những sự chủ động cần thiết về tài sản, vì hầu như họ không có tài sản riêng. Vì thế, đây không phải là sự lựa chọn hợp lý cho những vợ chồng trẻ. c. Chế độ tài sản riêng biệt Khác với những hình thức của chế độ cộng đồng tài sản, chế độ tài sản riêng biệt xác định vợ chồng không có tài sản chung. Chỉ có sự tồn tài của hai khối tài sản riêng của mỗi bên. Tuy nhiên, đối với phần nợ, ngoài những khoản nợ riêng của mỗi bên vợ chồng, còn có những khoản nợ chung phát sinh từ cuộc sống chung của gia đình. Đây là chế độ tài sản mà sự vận hành của nó là đơn giản nhất. Mỗi bên vợ chồng tự do quản lý và định đoạt các tài sản, thu nhập sau khi thực hiện nghĩa vụ đóng góp đối với đời sống chung. Chế độ tài sản riêng biệt trao cho vợ, chồng khả năng tự chủ rất cao về tài sản, là một sự lựa chọn hợp lý nhất cho những cặp vợ chồng có nhiều tài sản riêng mà họ đều có khả năng quản lý hoặc những vợ chồng tiến hành các công việc sản xuất, kinh doanh mà họ cần tránh những rủi ro có thể xảy ra đối với gia đình do những thất bại của việc kinh doanh. Tuy nhiên, chế độ tách riêng tài sản cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Nó bị đánh giá là chế độ « ích kỷ » nhất, vì thực chất đó là cơ chế bảo toàn tài sản của cá nhân. Do vậy, chế độ này không nên được áp dụng trong những trường hợp mà chỉ có một bên vợ (chồng) tham gia vào các hoạt động kiếm lợi ích, còn bên kia chỉ làm việc ở nhà. Khi chấm dứt chế độ tài sản, người không trực tiếp tạo ra lợi tức sẽ chịu nhiều bất lợi, mặc dù đã được tính toán đền bù công sức đóng góp. d. Chế độ đóng góp các tạo sản Chế độ đóng góp các tạo sản còn có tên gọi là chế độ hỗn hợp. Trong thời kỳ hôn nhân, chế độ này được vận hành như chế độ tách riêng tài sản, nhưng khi giải thể chế độ tài sản, các tạo sản sẽ được giải quyết như chế độ cộng đồng, tức là mỗi bên sẽ được nhận một nửa giá trị của những tạo sản trong gia sản của người kia. Chế độ này vừa tích lũy được những ưu điểm của chế độ tách riêng tài sản vừa phần nào khắc phục được những nhược điểm « ích kỷ » của nó. Thực tế, chế độ đóng góp các tạo sản đang được đánh giá cao ở nhiều nước, mà bằng chứng là nó đã trở thành chế độ tài sản pháp định (ở Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Áo và Thụy Sĩ). Ở Pháp, chế độ tài sản này được các học thuyết ca ngợi là có nhiều ưu điểm nhưng lại ít được sử dụng trong thực tế[9]. Tóm lại, không có một chế độ tài sản nào được coi là hoàn thiện cho tất cả các quan hệ vợ chồng, mà chỉ có chế độ tài sản thích hợp với hoàn cảnh của cặp vợ chồng nào đó mà thôi. Trong những trường hợp thấy cần lập hôn ước, với sự trợ giúp của công chứng viên, các bên kết hôn sẽ phải cân nhắc để quyết định một chế độ tài sản áp dụng và đưa vào trong đó những điều khoản cần thiết để điều chỉnh các quan hệ tài sản trong thời kỳ hôn nhân. 2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam 2.1. Thời kỳ trước 1975 Trong thời kỳ pháp thuộc, luật pháp về dân sự ở Việt Nam mang đậm dấu ấn của Bộ luật dân sự Napoléon. Trong ba bộ dân luật được áp dụng ở ba miền bắc, trung, nam, Bộ dân luật bắc và Bộ dân luật trung đã ghi chép những nguyên tắc cơ bản của BLDS Pháp như : quyền tự do lập hôn ước và tính chất không thay đổi của chế độ hôn sản. Khác với BLDS Pháp, hai Bộ dân luật này chỉ dự liệu một chế độ chung để áp dụng cho những vợ chồng không lập hôn ước, mà không đề xuất những chế độ để vợ chồng có thể thỏa thuận lựa chọn[10]. Thực tế, những quy định này đã được thực hiện ở Việt Nam trong khoảng 20 năm. Trong giai đoạn đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc, pháp luật về vấn đề này ở hai miền thể hiện những nội dung trái chiều. Luật hôn nhân và gia đình (HN-GĐ) ngày 29 tháng 12 năm 1959 ở Miền bắc chỉ quy định về một hình thức của chế độ tài sản pháp định (chế độ cộng đồng toàn sản), và vì thế, không có một quy định nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Trong khi đó, ở Miền nam, ba đạo luật đã được lần lượt ban hành để điều chỉnh các quan hệ dân sự, gia đình (Luật gia đình ngày 02 tháng 1 năm 1959, Luật 15/64 ngày 23 tháng 7 năm 1964 và Bộ dân luật ngày 20 tháng 12 năm 1972), đều thừa nhận quyền tự do lập hôn ước của vợ chồng và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ được áp dụng khi vợ chồng không lập hôn ước. Chẳng hạn, Bộ dân luật năm 1972 quy định : « Vợ chồng có thể tự do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn không trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục » (Điều 145) và « Luật pháp chỉ quy định chế độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước » (Điều 144). 2.2. Thời kỳ đất nước thống nhất Luật HN-GĐ năm 1986 và Luật HN-GĐ năm 2000 đều chỉ tập trung quy định về một chế độ tài sản pháp định. Nhà lập pháp không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước, nhưng cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung, giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp, do vậy, mọi thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN-GĐ năm 2000 đã đem đến một yếu tố mới, mà chúng ta thấy có khả năng xuất hiện một chế độ tài sản của vợ chồng khác với chế độ pháp định. Khoản 2 điều 8 quy định : « Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác ». Mặt khác, các quy định ở điều 9 và điều 10 về « khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng » đòi hỏi vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung thì phải lập thành văn bản có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể xảy ra theo hai trường hợp : chia một phần hoặc chia toàn bộ. Có lẽ, các quy định kể trên nhằm vào trường hợp thứ hai. Các quy định này đã bị chỉ trích mạnh mẽ bởi nhiều chuyên gia về Luật hôn nhân và gia đình vì cho rằng chúng mâu thuẫn với điều 27 Luật HN-GĐ năm 2000[11]. Ở đây chúng tôi không phân tích sự mâu thuẫn hay không của các quy định mà chỉ đề cập đến ý tưởng của những người soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế, Bộ Tư pháp là đơn vị chủ trì soạn thảo Luật HN-GĐ năm 2000, và cũng chính cơ quan này tiếp tục các công việc đối với Nghị định số 70 để hướng dẫn thi hành Luật. Các quy định ở khoản 2 điều 8 và điều 9, 10 thể hiện sự lôgíc của một ý tưởng mới về những quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo thỏa thuận. Vậy thì chúng ta có thể đưa ra một giả thuyết rằng, chính người soạn thảo văn bản Luật đã muốn có một sự mềm dẻo trong việc thừa nhận chế độ hôn sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong những trường hợp cần thiết. Nếu giả thuyết này đúng, thì đây quả thực sẽ là một bước đệm quan trọng cho việc thiết lập những quy định về hôn ước trong Luật HN-GĐ tương lai. Mặt khác, vì Nghị định 70 vẫn đang có hiệu lực, chắc chắn, sau khi chia hết tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể thực hiện một chế độ tách riêng tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc đóng góp của các bên vợ, chồng vào đời sống chung của gia đình cần được các văn bản pháp luật dự liệu cụ thể. 3. Kết luận Qua nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và các chế độ tài sản ước định nói riêng trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới, chúng tôi thấy rằng, để xác định đuợc một cách thức tổ chức hợp lý nhất các quan hệ tài sản của vợ chồng, Luật HN-GĐ Việt Nam cần quan tâm xử lý hai vấn đề cơ bản sau : Thứ nhất, nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong các quan hệ dân sự, được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, đảm bảo cho các cá nhân có quyền tự do thỏa thuận để xác lập các quyền và nghĩa vụ, miễn sao các thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong các quan hệ gia đình, vợ chồng có bổn phận, trách nhiệm phải đảm bảo những điều kiện về tinh thần cũng như vật chất cho sự tồn tại và phát triển của gia đình mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tất cả các đôi vợ chồng đều cần phải thực hiện một chế độ tài sản chung nhất. Quyền tài sản của vợ chồng là quyền gắn với nhân thân vợ chồng, vì vậy cần phải để cho chính họ cùng nhau thỏa thuận, quyết định lựa chọn một hình thức thực hiện hợp lý, có lợi nhất cho bản thân và cho gia đình. Mặt khác, để bảo vệ lợi ích của gia đình, của con cái, Luật HN-GĐ cần tập trung quy định một cách rõ ràng hơn những những nghĩa vụ và quyền về tài sản của vợ và chồng – áp dụng chung nhất cho mọi trường hợp, đồng thời phải đi kèm với những biện pháp đảm bảo thực hiện. Trong bối cảnh luật pháp như vậy, sự tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng sẽ không phá vỡ tính cộng đồng của hôn nhân, mà trái lại, nó sẽ củng cố những quan hệ gia đình một cách thực chất và theo tinh thần tự nguyện hơn. Thứ hai, thực tế kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều thay đổi so với thời kỳ những năm 80-90. Gia đình không còn bó hẹp với chức năng duy trì cuộc sống của các thành viên, mà thực sự đã tham gia tích cực vào nền kinh tế xã hội. Những quan hệ kinh tế đòi hỏi vợ, chồng phải có những quyết định nhanh nhạy, nhưng muốn vậy họ phải chủ động về tài sản. Chúng tôi cho rằng, Luật HN-GĐ hiện hành chưa theo kịp diễn biến của những quan hệ kinh tế, dân sự hiện nay. Nếu vợ, chồng thực hiện đúng theo quy định pháp luật, trong nhiều trường hợp, họ sẽ bỏ lỡ những cơ hội làm ăn. Mặt khác, việc đưa những tài sản chung của vợ chồng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng hàm chứa những rủi ro và có thể dẫn đến nguy cơ tiêu tán tài sản của gia đình, đặt cuộc sống gia đình vào trong tình trạng bấp bênh. Vì thế, ở những nước mà luật pháp thừa nhận chế độ hôn sản ước định, những người vợ, chồng làm nghề kinh doanh thường nghĩ đến một chế độ tách riêng tài sản. Chế độ đó vừa tạo điều kiện cho họ chủ động trong hoạt động kinh doanh, vừa tránh được những rủi ro có thể xảy đến cho cuộc sống gia đình. Tóm lại, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận không phải là một điều mới lạ đối với xã hội Việt Nam, thậm chí nó đã từng được thực hiện trong một thời gian khá dài (nhất là ở Miền nam). Thực chất, việc duy trì duy nhất một chế độ tài sản của vợ chồng, cho đến nay, phản ánh sự thắng thế của một quan điểm lập pháp, chứ không phải hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn kinh tế-xã hội. Chúng tôi không phủ nhận sự phù hợp của chế độ cộng đồng tạo sản mà mà Luật HN-GĐ đang thực hiện, nhưng sự áp đặt của chế độ này cho mọi quan hệ vợ chồng thì không thể được coi là hợp lý. Hơn nữa, xã hội Việt Nam, thực ra, không quá khác so với môi trường các nước trên thế giới, đến mức mà chúng ta phải có một cách tổ chức các quan hệ tài sản của vợ chồng, theo cách riêng biệt đến như vậy. Do đó, cũng như quan điểm của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực Luật HN-GĐ[12], chúng tôi cho rằng pháp luật về HN-GĐ Việt Nam cần thay đổi lại phương thức tổ chức các chế độ tài sản của vợ chồng, theo hướng thừa nhận quyền tự do của vợ chồng trong việc chọn chế độ tài sản áp dụng. [1] Xem: Bùi Tường Chiểu, Dân luật, Cuốn II, 1975 ; Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuât bản Tư pháp, 2008 ; Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, Nhà xuất bản trẻ, 2004. [2] Jean PATARIN và Imre ZAJTAY, Chế độ tài sản của vợ chồng trong những pháp luật đương đại, 1974, page 20-21. Cuốn sách này tập hợp 40 bài viết của các tác giả đến từ 40 nước, đại diện cho các châu lục, về chế độ tài sản của vợ chồng. [3] Anita GRANDKE và Klauspeter ORTH, Chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa dân chủ Đức – Chế độ tài sản của vợ chồng trong những luật pháp đương đại, đã dẫn, trang 99. [4] Andrea Bonomi và Marco Steiner, Những chế độ tài sản của vợ chồng trong luật so sánh và trong luật tư pháp quốc tế, Geneve 2006. Tuy nhiên, những nghiên cứu so sánh này chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp ở pháp luật của một vài nước Châu âu, Canada, Mỹ và một số nước hồi giáo. [5] Theo quy định của Điều 1395 Bộ luật Napoléon, sau khi kết hôn, vợ chồng không thể thỏa thuận để thay đổi chế độ tài sản mà họ đã lựa chọn khi kết hôn. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định của gia đình và đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba. [6] Thực tiễn nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng đã phản ánh những cách gọi khác nhau về thuật ngữ này. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nêu lên bản chất của thỏa thuận về chế độ tai sản của vợ chồng mà không đề cập đến góc độ ngữ nghĩa của nó. [7] Trước đó, các chế độ tài sản của vợ chồng được thực hiện khác nhau ở Pháp. Những vùng theo truyền thống tập quán pháp áp dụng chế độ cộng đồng về động sản và tạo sản. Những vùng theo truyền thống luật thành văn áp dụng chế độ hồi môn-gần giống với chế độ tách riêng tài sản. [8] André Colomer, Các chế độ tài sản của vợ chồng, NXB Litec 1995, số 1094. [9] Jean Champion, Hôn ước và các chế độ tài sản, NXB DELMAS 2007, số 126. [10] Bùi Tường Chiểu, đã dẫn, trang 165. [11] Nguyễn Phương Lan, Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Tạp chí Luật học số 6 năm 2002, trang 22 ; Bùi Thị Mừng, Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để một bên đầu tư kinh doanh –Trong đề tài khoa học « Tài sản của vợ chồng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh » của tổ bộ môn Luật hôn nhân và gia đình, năm 2007. [12] Ngô Thị Hường, Tổng thuật đề tài khoa học, đã trích dẫn, trang 36-37 ; Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân va gia đình Việt Nam, đã dẫn, trang 253-254. Minh Luật (Theo tạp chí luật học số 11 năm 2009 ) Quý khách vui lòng liên hệ : Công ty Minh Luật để được tư vấn pháp lý miễn phí! MINH LUẬT – TƯ VẤN PHÁP LÝ – TRANH TỤNG TẠI TÒA ÁN CÁC CẤP Trụ sở: 285/44 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 12, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh Website: Email:      saigonminhluat@gmail.comThis e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it This e-mail addres

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChế dộ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan