Mục lục
Lời nói đầu .2
Phần I : Chính sách tiền tệ .3
I. Vai trò .3
II. Mục tiêu .4
1. Mục tiêu cuối cùng.4
2. Mục tiêu trung gian .5
3. Mối quan hệ giữa các mục tiêu.6
III. Công cụ.
1. Công cụ trực tiếp.7
2. Công cụ gián tiếp .9
3. Một số công cụ khác .10
Phần II: Sự lựa chọn của Việt Nam .
I. Chính sách tài chính -tiền tệ với mục tiêu cân bằng kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam qua 20 năm đổi mới.
1. Chính sách tài chính .11
2. Chính sách tiền tệ .12
II. Chính sách tài chính -tiền tệ với mục tiêu kiềm chế lạm phát kết hợp tăng trưởng kinh
tế thời kì WTO .
1. Giai đoạn 2005-2006: ưu tiên tăng trưởng.14
2. Giai đoạn 2007-2008: kiềm chế lạm phát .16
3. Quý IV-2008 : thắt chặt hay nới lỏng CSTT.21
4. Định hướng mục tiêu năm 2009 .27
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2375 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tiền tệ và sự lựa chọn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong lưu thông
b/ Dự đính công trái tự nguyện
Ngoài việc buộc các NHTM mua công trái bắt buộc, NHTW còn kích thích các NHTM
mua thêm công trái khi số tiền cho vay không hết.
c/ Phát hành giấy bạc, cho phép lưu thông các công cụ thay tiền mặt
Thông thường khi các công cụ thay tiền mặt được sử dụng thì lưu thông tiền tệ sẽ nhanh
hơn tiết kiệm được chi phí lưu thông và đặc biệt làm tăng khả năng tín dụng của các
NHTM bởi vì khi mọi khoản tiền đều được thanh toán qua ngân hàng bằng các công cụ
thay tiền mặt như séc, thẻ tín dụng, lệnh chuyển khoản... sẽ làm cho toàn bộ hệ thống
ngân hàng gần như không bao giờ mất khả năng cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.
11
PHẦN II: SỰ LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM
I. Chính sách tài chính - tiền tệ với mục tiêu cân bằng kinh tế đối ngoại
và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua 20 năm đổi mới
Định hướng mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam là xây dựng một nền kinh tế thị
trường, mở hướng về xuất khẩu. Trong thời gian qua, chính sách tài chính – tiền tệ đã có
những đổi mới rất quan trọng để tạo ra những yếu tố tiền đề tác động hỗ trợ và thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế trong nước, cân bằng quan
hệ kinh tế đối ngoại.
1. Chính sách tài chính
Trong chính sách tài chính, chính sách thuế giữ một vị trí đặc biệt quan trọng tác
động đến hoạt động thương mại và sự vận động của các luồng vốn quốc tế, đồng thời có
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong
nước - điều kiện cốt tử để cho hội nhập đạt hiệu quả cao nhất đối với mỗi quốc gia.
Hệ thống thuế quan của Việt Nam bắt đầu được ban hành năm 1988 theo danh mục
hàng hóa của khối Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV) mà không theo hệ thống danh
mục hàng hóa hài hòa (HS) của Hội đồng Hải quan thế giới. Thực hiện chính sách đổi
mới, mở cửa, Việt Nam đã dần từng bước điều chỉnh lại hệ thống thuế quan cho phù hợp
với thông lệ quốc tế
Năm 1996, thực hiện cam kết với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam đã giảm
thuế suất, nhập khẩu của một số mặt hàng có thuế suất trên 60% và được điều chỉnh
nhiều lần cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong từng giai đoạn. Năm 1999,
Việt Nam áp dụng Luật sửa đổi một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm
1991. Theo quy định của Luật thuế này, thuế suất, thuế nhập khẩu của Việt Nam gồm 3
loại: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Ngày 1 tháng 7
năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 78/CP về việc ban hành danh mục hàng hóa và
thuế suất của Việt Nam để thực hiện Hiệp định CEPT cho các năm 2003-2006. Trong đó
có trên 5000 dòng thuế được giảm xuống 0%-5% vào năm 2006.
Những đổi mới và hoàn thiện Luật thuế nói chung, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu nói riêng ở Việt Nam thời gian qua là hoàn toàn phù hợp với chủ trương phát triển
một nền kinh tế thị trường mở và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu
theo lộ trình của các Hiệp định làm cho nguồn thu Ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu
giảm xuống nhưng lại được bù đắpt bởi tăng nguồn thu từ nội địa do mở rộng đối tượng
nộp thuế và mặt hàng chịu thuế. Các chính sách ưu đãi về thuế đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài và việc bãi bỏ thuế thu nhập đối với kiếu hối của người Việt Nam ở nước
12
ngoài đã làm cho luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và kiều hối tăng cao, tài trợ tích
cực cho thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai.
2. Chính sách tiền tệ.
Trong chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá có vai trò lớn, tác động trực tiếp đến cán
cân thanh toán quốc tế và tiềm lực tài chính trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Về chính sách tỷ giá, có thể xem xét sự ảnh hưởng của chính sách này đến mục
tiêu cân bằng kinh tế đối ngoại của Việt Nam qua các giai đoạn.
Trong những năm 1988-1991, tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ chế độ đa tỷ giá
chuyển sang chế độ tỷ giá thống nhất được xác định theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước. Sự điều chỉnh hợp lý tỷ giá hối đoái danh nghĩa phối hợp với việc thắt
chặt cung tiền, cắt giảm chi tiêu Chính phủ, hạn chế tín dụng, tăng lãi suất… và những
chính sách kinh tế khác đã chặn đứng được lạm phát, đưa nền kinh tế Việt Nam ra khỏi
suy thoái và bước vào thời kỳ phát triển.
Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống
lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách
tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì vậy,
nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng,
tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%.
Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích
cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
với tốc độ cao trên 8% năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố
định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước
có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam)
và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu
hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao
hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích luỹ những nhân tố gây mất ổn định và kìm hãm sự
phát triển kinh tế.
Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm
sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại và
cán cân thanh toán chuyển trạng thái từ thặng dư năm 1991-1992 sang trạng thái thâm
hụt, bắt đầu tích luỹ sự mất cân đối bên ngoài và dần chuyển sang gây mất ổn định và
mất cân đối bên trong nền kinh tế. Bởi vì, về bản chất, tỷ giá hối đoái không chỉ tác động
đến những vấn đề kinh tế đối ngoại mà nó còn tác động đến các vấn đề kinh tế đối nội
thông qua sự tác động của tỷ giá đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến khích các nhà
đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu
– một nguồn lực được coi là khan hiếm ở Việt Nam. Điều này đã đi ngược với chiến lược
13
phát triển kinh tế dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi
thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực lao động.
Một yếu tố khác càng làm trầm trọng hơn tác động tiêu cực của tỷ giá hối đoái giai
đoạn này là việc phá giá đồng NDT 50% vào năm 1994 của Trung Quốc. Việc phá giá
NDT đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc quá rẻ đã tràn ngập thị trường Việt
Nam qua con đường buôn bán mậu dịch và buôn lậu, gây khó khăn cho sản xuất trong
nước và tăng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc.
Từ năm 1997 đến nay, chính sách tỷ giá hối đoái được điều hành nhằm chống đỡ
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực và khắc phục tình trạng đánh
giá cao VND thời gian trước đó.
Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông Nam á đã
làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng USD
và VND. Điều đó cũng có nghĩa là, VND đã bị đánh giá cao hơn nữa, trong bối cảnh các
nước trong khu vực là bạn hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất
khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng.
Phân tích những nguyên nhân và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ
khu vực cho thấy, mặc dù thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển đầu
đủ và mở cửa nên không bị kéo ngay vào làn sóng của cuộc khủng hoảng, nhưng Chính
phủ và NHNN Việt Nam đã nhận thấy tính chất nghiêm trọng của ổn định chế độ tỷ giá
danh nghĩa kéo dài – một nguyên nhân quan trọng tạo ra cuộc khủng hoảng nên đã có
những biện pháp xử lý tương đối hợp lý, ngăn chặn được những cú sốc không cần thiết
đối với nền kinh tế. Vì vậy tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ
giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ
(+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng
mạnh. Mặc dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường không có những biến động đáng
kể.
Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999, cán
cân tài khoản vãng lai và cán cân thanh toán cũng giảm dần thâm hụt, mặc dù đầu tư
nước ngoài suy giảm mạnh trong các năm này. Nhưng điều chỉnh tỷ giá như trên cũng có
những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi vì khi VND giảm giá đã làm tăng thêm gánh
nặng nợ nước ngoài của cả chính phủ và các doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, giảm
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vì vậy có thể thấy rằng, đó cũng chính là cái giá phải trả khi lựa chọn chính sách tỷ
giá thiên về cố định bằng cách duy trì sự ổn định của tỷ giá danh nghĩa quá lâu. Và một
khi duy trì tỷ giá cố định càng dài thì cái giá phải trả càng lớn.
Để tránh những hậu quả tương tự, chính sách tỷ giá phải được điều chỉnh linh hoạt,
phản ánh đúng với quan hệ cung cấp về ngoại hối, sở thích của người tiêu dùng, lạm phát,
lợi tức của tài sản nội, ngoại tệ… để chống đỡ được các cú sốc của nền kinh tế. Vì vậy, từ
năm 1999, NHNN chấm dứt công bố tỷ giá chính thức, mà chỉ công bố tỷ giá giao dịch
14
bình quân trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời biên độ giao dịch dao động cũng
giảm xuống chỉ còn (+) (-) 0,1%. Việc can thiệp của Nhà nước đối với tỷ giá được thực
hiện chủ yếu thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNN trên thị trường ngoại hối,
xoá bỏ phương thức quản lý mang nặng tính chất hành chính chủ quan trước đây. Từ đó
cho đến nay, tỷ giá hối đoái đã được hình thành theo cơ chế thị trường, bám sát sự biến
động của thị trường thế giới, phản ánh tương đối sát quan hệ kinh tế quốc tế giữa đồng
nội tệ và ngoại tệ, nên đã cải thiện cơ bản cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam.
Tóm lại, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện
các công cụ của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong
những năm qua. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng
trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa
và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả.
( trích Ths. Nguyễn Hồng Phong TCCN kì I tháng 12/2005 trang 29)
II. Chính sách tài chính - tiền tệ với mục tiêu kiềm chế lạm phát kết hợp
tăng trưởng kinh tế thời kì WTO
1. Giai đoạn 2005-2006 : ưu tiên tăng trưởng kinh tế
1.1 Toàn cảnh kinh tế
Ngay từ khi thị trường có những biểu hiện của lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã có
những phân tích tỉnh táo từ chiều hướng, nguyên nhân lạm phát để có đối sách thích hợp.
Giai đoạn này, lạm phát chủ yếu không bắt nguồn từ nguyên nhân tiền tệ mà là do những
cú sốc từ khách quan mang lại. Điều này đã được Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc
tế đồng nhất ý kiến. Vì vậy, biện pháp giải quyết cũng chủ yếu không phải từ chính sách
tiền tệ . Nếu thắt chặt tiền tệ sẽ tăng chi phí về vốn dẫn đến giá cả hàng hóa tăng, đồng
thời hạn chế đầu tư phát triển.
Dư âm của lạm phát 9,5%/năm của 2004 vẫn còn kéo dài tới đầu quý I 2005. Ngân hàng
Nhà nước đã có động thái nâng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn kể từ 15/1 để
khẳng định các ngân hàng phải huy động vốn từ các nguồn trong dân cư và doanh nghiệp,
giảm bớt chỗ dựa vào nguồn cho vay tái cấp vốn của ngân hàng trung ương. Để đối phó
với việc tăng giá, ngân hàng nhà nước vẫn yêu cầu giữ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đồng thời
điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu lên 0,5%/năm cho hai loại trên.
15
Ngoài ra, tiếp tục điều chỉnh tỷ giá theo hướng giữ ổn định tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó,
ngay từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước đã có biện pháp để tăng trưởng tín dụng cả năm
nằm trong mục tiêu kiểm soát được (không quá 25%). năm 2004 lạm phát tăng cao so với
mục tiêu đề ra dẫn đến tâm lý người dân cân nhắc lựa chọn đầu tư đồng tiền nào có lợi.
Đã có sự chuyển dịch đầu tư từ VND sang USD nhưng chưa phải là cú sốc về luồng vốn,
vì trong tổng lượng tiền gửi của dân cư năm 2004 tỷ trọng huy động USD vẫn thấp hơn
các năm trước. Hiện xu hướng tăng tiền gửi VND đang trở lại (tăng 22% so với đầu
năm). Từ giữa tháng 1, Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp
vốn lên 0,5%. Lãi suất tái chiết khấu hiện là 5,5%, lãi suất tái cấp vốn là 3,5%. Năm 2004
có những vấn đề rất nhạy cảm: giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng
nếu làm tuỳ tiện để lãi suất cơ bản tăng không cần thiết, các tổ chức tín dụng có thể tăng
nhanh lãi suất, có thể gây khó khăn cho tăng trưởng và tạo ra một làn sóng cạnh tranh về
lãi suất huy động vốn. Vì vậy, chủ trương của ngân hàng nhà nước là giữ ổn định cả lãi
suất chiết khấu và cả lãi suất tái cấp vốn chứ không riêng gì lãi suất cơ bản.
Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả
nước chỉ đạt 7,6%, tăng trưởng khu nông nghiệp đạt 4,23%, tăng trưởng khu vực công
nghiệp, xây dựng đạt 9,5%, tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 7,6%. Những con số này đều
thấp hơn những chỉ tiêu đã đặt ra cho năm 2005. Nhằm hoàn thành những mục tiêu đã đề
ra, ngày 20/07/2005, Chính phủ đã gửi công điện khẩn nhắc nhở các bộ ngành thực hiện
nghiêm túc việc điều hành giá cả đối với các mặt hàng thiết yếu, đồng thời yêu cầu 6
tháng cuối năm phải phấn đấu đạt mức tăng trưởng thấp nhất là 9,3%, để cả nước có mức
tăng trưởng kinh tế 8,5% cả năm. Điều này đã thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong
điều hành nền kinh tế theo những định hướng và mục tiêu đã được hoạch định.
1.2 Phải đánh đổi bằng lạm phát
Nguồn vốn đầu tư khả dĩ nhất chỉ có thể là cung tiền của Ngân hàng nhà nước. Nhưng
hậu quả tất yếu của việc tăng cung tiền là không tránh khỏi lạm phát. Một đồng tiền mới
do Ngân hàng nhà nước phát hành sẽ tạo ra nhiều đồng tiền mới cho toàn nền kinh tế.
Với thực tế nền kinh tế hiện nay, để giữ chỉ số tăng giá cho cả năm ở mức 6,5% trong khi
6 tháng đầu năm đã tăng 5,2% gần như là nhiệm vụ bất khả thi. Nếu phải tăng cung tiền,
kích thích đầu tư thì rất khó dự đoán chỉ số giá có thể ở mức nào.
Mặt khác, những vấn đề liên quan đến vụ kiện bán phá giá của EU đối với da giày Việt
Nam, sự bành trướng quá mức của hàng dệt may Trung Quốc và những vấn đề khác là
khó khăn cho việc đẩy mạnh xuất khẩu.
16
Do đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trong ngắn hạn, cụ thể là 6 tháng còn lại
của năm 2005, ngoài việc tăng cung tiền, kích thích đầu tư thì hầu như không còn giải
pháp nào khác.
Cho đến thời điểm này, trên thế giới, hầu như chưa có ai tìm ra được giải pháp nào đó để
nền kinh tế có thể đạt được mức tăng trưởng cao đột biến so với mức bình quân trước đó
nhưng lại kiềm chế được lạm phát. Tăng trưởng và lạm phát luôn phải đánh đổi. Việt
Nam không phải là ngoại lệ.
2. Giai đoạn 2007- 2008 : Áp lực lạm phát và ứng xử
2.1 Toàn cảnh kinh tế:
Qua hai năm hội nhập, chính sách tiền tệ phải đối mặt với 3 vấn đề lớn, đó là: kiểm soát
tổng lượng tiền, lãi suất, tỷ giá khi lạm phát gia tăng; ngăn chặn bất ổn do tự do hóa giao
dịch vốn và đặc biệt là ảnh hưởng của xu hướng nới lỏng hay thắt chặt chính sách tiền tệ
trên thế giới. Nếu như năm 2004, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chỉ 55,261 tỷ USD thì
đến 2007 lên tới 111,243 tỷ USD và con số này của nửa đầu 2008 là 75,466 tỷ USD.
Cùng với đó là dòng vốn bên ngoài như đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FII),
chuyển tiền tư nhân ngày càng lớn, nhất là đầu tư gián tiếp: năm 2006 vốn FII chỉ 1,3 tỷ
USD nhưng đến 2007, FII vượt quá 6,2 tỷ USD.
Ngoại tệ vào nhiều, giúp cho cán cân thanh toán tổng thể thặng dư và xét ở một góc độ
khác, đó là cơ hội để Ngân hàng Nhà nước tăng dự trữ ngoại tệ, cơ sở để ổn định tỷ giá
và làm an lòng các nhà đầu tư nước ngoài.
Thế nhưng, sự tràn vào ồ ạt của dòng ngoại tệ trong một thời gian ngắn còn gây ra những
tác động xấu khác. “Về lý thuyết cũng như thực tiễn, kết quả của cán cân thanh toán sẽ
làm thay đổi tài sản “Có” ngoại tệ ròng, mà sự thay đổi tài sản “Có” ngoại tệ ròng sẽ làm
thay đổi tổng phương tiện thanh toán”
Ngoài ra, trong nền kinh tế đô la hóa như Việt Nam, mối quan hệ giữa tỷ giá, lãi suất nội
và ngoại tệ quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Vì thế, nếu không đảm bảo lợi tức cân bằng
giữa hai loại đồng tiền này, đương nhiên sẽ có sự dịch chuyển đầu tư giữa hai thị trường
này và công việc điều hành chính sách tiền tệ trở nên khó khăn hơn.
Điều này đã được kiểm chứng rất rõ trong nửa đầu năm 2008 khi giá một USD trên thị
trường tự do xuống tới 15.400 VND và vài tháng sau vọt lên 19.500 VND và “con ngựa
17
bất kham” này chỉ chịu đứng yên khi Ngân hàng Nhà nước tung nhiều tỷ USD dự trữ
ngoại hối để bình ổn.
Áp lực tiếp theo, đó là ngăn chặn bất ổn khi tự do hóa giao dịch vốn. Khi đã chấp nhận
hội nhập, sẽ không thể cưỡng lại xu thế tự do hóa tài khoản vốn. Và cùng với quá trình
này là các rào cản giao dịch vốn phải gỡ bỏ, dòng vốn ngoại có thể “vào - ra” bất cứ lúc
nào, với bất cứ quy mô nào.
Chính thực tế này, đã khiến cho Ngân hàng Nhà nước rất lúng túng trong việc điều hành
giữa một bên là duy trì ổn định tỷ giá hỗ trợ xuất khẩu và bên kia là mối nguy lạm phát
khi mở rộng cung tiền.
Cuối cùng, khi hội nhập, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ còn gặp phải một mối lo
khác là những tác động tiêu cực đến từ động thái nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ từ các
quốc gia khác trên thế giới, nhất là những quốc gia có đồng tiền mạnh như Mỹ hay khối
châu Âu.
2.2 Kiềm chế lạm phát
Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách chống lạm phát cả gói của Chính phủ
bao gồm các chính sách về thắt chặt tiền tệ và một loạt các chính sách khác như tăng
cung, kiểm soát giá cả, giảm cung ứng tín dụng vào những khu vực không hiệu quả.
Tuy nhiên, NHNN tập trung chủ yếu vào bốn biện pháp căn bản :
- Nới lỏng tỷ giá hối đoái để giảm áp lực đối với dòng vốn từ bên ngoài vào, tức là giảm
áp lực cung ứng tiền để mua ngoại tệ.
- Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế tăng trưởng tín dụng ở mức trên dưới 30%.
- Phát hành tín phiếu hay hối phiếu của Ngân hàng Trung ương để hút tiền từ lưu thông
về.
- Tăng cường thanh tra giám sát về cung ứng tín dụng trong khu vực bất động sản và
chứng khoán.
Tuy nhiên, chính sách thắt chặt tiền tệ cũng đang bộc lộ một số vấn đề mà cần phải có
nghiên cứu sâu hơn và điều hành một cách thật là thận trọng. Ví dụ như nới lỏng tỷ giá
hối đoái thì dẫn đến đồng Việt Nam tăng giá và điều này ảnh hưởng tới xuất khẩu vì 90%
hàng xuất khẩu của Việt Nam được thanh toàn bằng đồng USD.
18
Vấn đề nữa là khi lãi suất tăng lên khá cao cộng với giá đầu vào tăng cao cũng gây khó
khăn lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước biết điều đó nên phải tìm
cơ hội khi lạm phát có dấu hiệu giảm thì mới nới lỏng các biện pháp thắt chặt tiền tệ để
tránh ảnh hưởng xấu tới doanh nghiệp.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu: Trong những tháng đầu
năm 2008, trước bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm và tình hình kinh tế trong nước diễn
biến phức tạp, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Kiềm chế lạm
phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững,
trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu” và đề ra 8 nhóm giải pháp để
triển khai thực hiện.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai đồng bộ
các giải pháp điều hành tiền tệ, ngân hàng với các biện pháp chủ yếu như sau:
(1) Rút bớt tiền từ lưu thông thông qua điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc, phát hành tín
phiếu bắt buộc; chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng
mức ở hợp lý để kiềm chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.
(2) Đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm
soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho
người gửi tiền.
(3) Điều hành chính sách tỷ giá theo nguyên tắc linh hoạt và có kiểm soát, thông qua mở
rộng biên độ mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại (NHTM) so với tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng từ +1% lên +2% ; can thiệp trên thị trường
ngoại hối, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động
đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường nhằm ổn định thị trường ngoại
hối.
(4) Tăng cường hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng (TCTD) thông qua nghiệp
vụ thị trường mở và các công cụ tái cấp vốn khác, tập trung ưu tiên vốn cho phát triển sản
xuất, xuất khẩu, các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia và cho phát triển sản xuất nông
nghiệp, nông thôn.
(5) Tăng cường giám sát thị trường tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nhanh để đánh giá
diễn biến thị trường để có biện pháp can thiệp phù hợp. Tăng cường thanh tra, giám sát
hoạt động các TCTD, đặc biệt là các NHTM nhỏ, để chấn chỉnh việc quản trị, điều hành,
19
việc chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh. Cho đến nay,
hoạt động kinh doanh của các TCTD đều đảm bảo an toàn. Hầu hết các NHTM đều có hệ
số an toàn vốn lớn hơn mức quy định tối thiểu.
Ngân hàng Nhà nước... "ra quân", ngân hàng thương mại gặp khó khăn
Đầu năm 2008, thị trường ngân hàng đứng trước một biến cố hiếm thấy: hàng loạt ngân
hàng thương mại như Techcombank, ABBank, SHB, Southernbank... bước vào cuộc đua
lãi suất huy động vốn.
Trong khi các ngân hàng khác chỉ tăng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng ở mức
9,6%/năm thì VPBank đã đón đầu tăng lãi suất huy động lên mức kỷ lục: 10,5% đối với
kỳ hạn 12 tháng.
Ông Lê Đắc Sơn, Tổng giám đốc VPBank cho biết: "Sở dĩ VPbank buộc phải nâng lãi
suất huy động phần lớn các kỳ hạn từ 0,6%/năm - 1%/năm là do chúng tôi dự đoán chỉ
trong một vài tuần tới, mặt bằng lãi suất sẽ được thiết lập ở mức như chúng tôi ấn định
hiện nay và VPBank buộc phải đi trước một bước".
Ông Vũ Đức Nhuận, Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng hải
(Maritimebank) cho biết: "Trong lúc này tình hình rất căng thẳng, các ngân hàng thương
mại đang nhốn nháo đi tìm vốn và việc huy động vốn ở Maritimebank diễn ra không hề
dễ dàng. Do thiếu tiền mặt, nên dù chưa phải dừng cho vay nhưng đối với một số dự án,
Maritimebank phải hạn chế cho vay khách hàng mới, chỉ tập trung vào một số khách
hàng truyền thống".
Còn ông Đặng Trung Dũng, Phó tổng giám đốc SHB nói: "SHB chưa đến mức dừng cho
vay như một số ngân hàng thương mại khác nhưng tình trạng chung trên thị trường ngân
hàng là thiếu tiền mặt VND". Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại đã dừng hẳn
cho vay. Sự việc căng thẳng đến nỗi, để đấu giá chỉ 100 tỷ đồng trên thị trường liên ngân
hàng, lãi suất đã bị đẩy lên mức 30%/năm!
Với quyết định 187/2008/QĐ - Ngân hàng Nhà nước, điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc từ
10% lên 11% đối với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ không kỳ hạn và dưới 12 tháng, sẽ có
khoảng 70 nghìn tỷ đồng bị "giam" vào trong kho. Ngày 1/2/2008, Ngân hàng Nhà nước
tiếp tục thắt chặt hơn cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán bằng Quyết định
03/QĐ/NHNN, Quyết định 306/QĐ - NHNN điều chỉnh tăng thêm 1%/năm đối với lãi
suất tái cấp vốn và 1, 5%/năm đối với lãi suất tái chiết khấu và ngày 13/2/2008, Ngân
20
hàng Nhà nước tung ra Quyết định số 346/QĐ - NHNN bán tín phiếu bắt buộc nhằm thu
về 20.300 tỷ đồng từ các ngân hàng thương mại.
Phó tổng giám đốc Ngân hàng S. phân tích thêm: "Ngoài nguyên nhân từ chính sách điều
hành, còn có các nguyên nhân khác như thị trường vàng, bất động sản đang sốt, chứng
khoán tụt dốc (và đó là thời điểm tốt để mua vào)... đã chia sẻ bớt dòng vốn chảy vào
ngân hàng thương mại. Chưa kể, năm 2007, tăng trưởng dư nợ tín dụng quá nóng đã để
lại sự hụt hẫng khá lớn về tiền đồng đối với các ngân hàng thương mại".
Trả lời cho hiện tượng này, nguyên một lãnh đạo cấp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho
rằng, đó là hệ quả của hàng loạt yếu tố bất thường trên thị trường tiền tệ trong thời gian
gần đây và chủ yếu xuất phát từ chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước,
nhằm đối phó với lạm phát đang phi mã.
2.3 Tác dụng của kiềm chế lạm phát đến tháng 10-2008
Tốc độ tăng trưởng GDP trong 9 tháng ước đạt 6,52%, tuy còn thấp hơn tốc độ tăng
GDP cùng kỳ năm 2007 nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động bất lợi
và kinh tế trong nước còn gặp nhiều khó khăn thì đây là kết quả khả quan, phù hợp với
các n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách tiền tệ và sự lựa chọn của Việt Nam.pdf