Tỷ giá được công bố là tỷ giá bình quân liên ngân hàng, phán ảnh tỷ gái của đồng VNĐ đã được hình thành dựa trên các giao dịch của thị trường và phản ánh tương đối khách quan sức mua của VNĐ so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh, đảm bảo vai trò giám sát của nhà nước. Chính nhu cầu của các doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung, cầu ngoại tệ của doanh nghiệp được thỏa mãn. Việc hình thành tỷ giá theo cơ chế này làm cho tỷ giá được điều chỉnh một cách mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng sự hòa nhập thị trường.
Gọi là cơ chế “thả nổi” do thứ nhất đã được quỹ tiền tệ thế giới IMF công nhận. Thứ hai là do Ngân hàng nhà nước không công bố tỷ giá chính thức mà chỉ thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Thứ ba là trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng mà Ngân hàng Nhà nước thông báo, các Ngân hàng thương mại sẽ tự xác định tỷ giá của tổ chức mình trong biên độ giao động cho phép đối với USD và tự quyền với các ngoại tệ khác,
Cơ chế có điều tiết thể hiện thứ nhất là các Ngân hàng thương mại tự xác định tỷ giá nhưng phải dựa trên tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng với một biên độ dao động cho phép. Thứ hai là tỷ giá bình quân liên ngân hàng là cố định theo ngày. Và thứ ba là tỷ giá bình quân liên ngân hàng không được tự do thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường liên ngân hàng mà trong giới hạn +/- 0.25% so với ngày giao dịch trước.
Vì vậy mà chính sách tỷ giá của Việt Nam sau 1999 được gọi là cơ chế thả nổi có điều kiện.
32 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4238 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất nghiệp và thâm hụt cán cân thương mại ở mức khổng lồ của Mỹ, trong đó thâm hụt với Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nhất.
II_ Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam
2.1. Chính sách hối đoái của Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn trước 1988
Trước thời kỳ đổi mới nền kinh tế Việt Nam mang tính kế hoạch hóa tập trung theo mô hình của Liên Xô cũ, nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động, các lĩnh vực kinh tế, xã hội…Trên thị trường, quan hệ cung cầu, các yếu tố ảnh hưởng đến không được xem xét. Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Việt Nam hầu như không có mối quan hệ thương mại với các nước không theo con đường chủ nghĩa xã hội do vậy chủ yếu xác lập tỷ giá giữa VNĐ và đồng Rúp, còn với các ngoại tệ khác được xác lập không chính thức.
Khi Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá không những không đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường mà còn kìm hãm những động lực để phát triển kinh tế, làm cho nền kinh tế sa sút và đi vào suy thoái. Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cớ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và theo đó có sự chuyển đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta. Quá trình chuyển đổi diễn ra theo nhiều giai đoạn. Cũng giống như Trung Quốc và một số nước khác, trước hết để cho tỷ giá thả nổi theo sát những diễn biến của thị trường trong những năm đầu của quá trình chuyển đổi (1989 – 1992). Sau đó thì nhà nước can thiệp và duy trì tỷ giá xung quanh một biên độ nhất định.
Thời kỳ tỷ giá được nới lỏng (1989 – 1992)
18/10/1988 Hội đồng Bộ trưởng này là Chính phủ ban hành nghị định 161/HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hội” nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền về tiền tệ và phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá với nước ngoài. Theo nghị định này Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Từ 10/1998 tỷ giá đồng VNĐ với khu vực ngoại tệ chuyển đổi sẽ được xác lập cho phù hợp với thị trường và dao động trong biên độ từ 20% - 30% so với tỷ giá thị trường.
15/3/1989 Ngân hàng Nhà nước ra thông tư số 33/NH/TT hướng dẫn thi hành “Điều lệ quản lý ngoại hối”. Tỷ giá được điều chỉnh từ 3000 VNĐ/USD lên 3900 VNĐ/USD và tỷ giá chính thức cũng đã được điều chỉnh liên tục tăng trong các năm 1990 – 1992. Chính sự điều chỉnh này giúp cho khả năng xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam gia tăng mạnh.
Như vậy từ 3/1989 Việt Nam đã áp dụng chế độ 1 tỷ giá, tỷ giá này do Ngân hàng Nhà nước công bố trên cơ sở đã tổng hợp các yếu tố như lạm phát, cán cân thanh toán quốc tế, lãi suất…Hay nói một cách khác là Ngân hàng Nhà nước đã dựa vào quan hệ cung cầu trên thị trường để xác lập tỷ giá. Đây là động thái đánh dấu bước ngoặt khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Thời gian
Tỷ giá chính thức
Tỷ giá tự do
Chênh lệch
Giá trị
Tỷ lệ %
1988
3000
5000
2000
66.6
1989
3900
4100
200
5.1
6/1990
5000
5500
500
10
12/1990
6500
700
500
7.69
6/1991
8100
8780
680
8.39
11/1991
14194
14420
226
8.39
6/1992
11138
11380
242
2.42
12/1992
10407
10520
50
0.47
(Báo cáo thống kê, tổng kết từ 1989 – 1999 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam)
16/8/1991 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định 107/ NĐ – QĐ thành lập 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Việc thành lập 2 trung tâm này đã giúp linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo thị trường. Theo quy định tỷ giá mua vào không được vượt quá 0.5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước.
Thời kỳ tỷ giá cố định (1992 – 1996) (Đây cũng được coi là thời kỳ trước khủng hoảng tài chính tiền tệ)
Sau cải cách cho đến những năm 1992, tỷ giá được nới lỏng, sự tăng giá mạnh đồng USD trong thời kỳ này đã đưa đến một số hệ quả không tốt, dẫn đến hiện tượng Việt Nam nhập siêu liên tục do nhu cầu phát triển trong nước, nhập khẩu các trang thiết bị… Đây chính là lý do để Việt Nam áp dụng sang chính sách tỷ giá cố định. Nhà nước đã có những can thiệp vào tỷ giá ngoại tệ, tỷ giá danh nghĩa gần như là cố định. Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá mỗi ngày và xác định rõ biên độ dao động chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do. Trong giai đoạn trước mức chênh lệch còn ở mức cao, song ở giai đoạn này được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh ở mức chưa đầy 1%
Như vậy sau năm 1992, chính sách tỷ giá hối đoái được chuyển từ thả nổi linh hoạt có kiểm soát sang chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh. Nhà nước đã can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua bán ngoại tệ, có các biện pháp tăng cường kiểm soát ngoại tệ trôi nổi nhằm ổn định tỷ giá.
20/9/1994 thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập nhằm mục đích hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ. Thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Nhà nước sử dụng quỹ điều hòa ngoại tệ với tư cách là người mua, người bán cuối cùng để can thiệp thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá của Nhà nước.
12/1992
12/1993
12/1994
12/1995
12/1996
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
10720
10841
11004
11021
11040
CPI Việt Nam
100
105.2
120.3
135.6
141.7
CPI Mỹ
100
102.6
104.9
107.6
109.8
Tỷ giá hối đoái (PPP)
10720
10992
12294
13510
13834
(Báo cáo thống kê, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Như vậy có thể thấy việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định quá lâu đã làm cho đồng VNĐ ngày càng có xu hướng bị đánh giá cao hơn thực tế, đồng VNĐ đã bị lên giá đối ngoại. Nếu dựa theo phương pháp tính PPP, giả sử lấy 12/1992 là thời điểm gốc, tính đến 12/1996 tỷ giá hối đoái sẽ là 13834 VNĐ/USD nhưng trên thực tế chỉ là 11040 VNĐ/USD
Chính việc đồng VNĐ bị đánh giá cao đã gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh trong thương mại quốc tế của hàng hóa - dịch vụ Việt Nam, làm kìm hãm xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu, tạo sức ép lớn với các ngành sản xuất trong nước.
Thời kỳ xảy ra khủng hoảng (1997 – 1998)
Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng, vào tháng 2/1997 Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ giá danh nghĩa để hạn chế số nhập siêu quá lớn. Vào tháng 7/2997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nổ ra, có ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Một loạt các đồng tiền của các nước bạn hàng bị mất giá so với USD. Trong chính sách tỷ giá cố định ở thời kỳ trước đồng VNĐ đang bị định giá cao thì nay lại càng tăng giá hơn.
Để giảm giá đồng VNĐ, nhà nước tiếp tục điều chỉnh tăng giá tỷ giá thêm 3 lần trong năm 1997, 1998 nhằm khuyến khích xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Lần điều chỉnh đầu tiên là vào 13/10/1997, Ngân hàng Nhà nước đã nới lỏng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức. Biên độ dao động được đưa lên 10% đã giúp cho tỷ giá biến động một cách linh hoạt hơn, phản ánh đúng mức hơn những yếu tố thực tế ảnh hưởng tới.
Tháng
Tỷ giá chính thức
Tỷ giá thị trường tự do
Mua
Bán
1/1997
11080
11250
11340
2/1997
11090
11400
11460
3/1997
11101
11620
11650
4/1997
11105
11740
11770
5/1997
11110
11640
11660
6/1997
11119
11640
11660
7/1997
11129
11864
11710
8/1997
11144
11770
11800
9/1997
11164
12770
11800
10/1997
11175
12350
11450
11/1997
11175
12970
13030
12/1997
11175
12850
13000
(Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 1997)
Sang năm 1998 tỷ giá tiếp tục được điều chỉnh tăng lên. Vào tháng 8/1998 tỷ giá chính thức ở mức 12998 tăng 10% so với đầu năm 1998 và biên độ giao dịch ngoại tệ thu hẹp xuống chỉ còn là 7%
Tháng
Tỷ giá chính thức
Tỷ giá thị trường tự do
Mua
Bán
1/1998
11175
13115
13197
2/1998
11800
13254
13383
3/1998
11802
13048
13122
4/1998
11806
12987
13010
5/1998
11804
12980
13002
6/1998
11805
13030
13065
7/1998
11808
13022
13050
8/1998
12998
13877
13999
9/1998
12998
14416
14510
10/1998
12998
14041
14089
11/1998
12990
13987
13899
12/1998
12956
13890
13940
(Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 1997)
Cơ chế tỷ giá “thả nổi có quản lý” từ 1999 đến nay.
Qua năm 1999, nền kinh tế các nước bắt đầu phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997. Chính sách tỷ giá của Việt Nam được điều chỉnh thành chính sách thả nổi có quản lý.
25/2/1999 Ngân hàng Nhà nước ban hành 2 quyết định quan trọng đó là 64/1999/QĐ – NHNN công bố tỷ giá hối đoái của đồng VNĐ với các ngoại tệ và 65/1999/QĐ – NHNN quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.
Bắt đầu từ 26/2/1999 Việt Nam đã thi hành một cơ chế điều hành tỷ giá mới: thay cho việc công bố tỷ giá chính thức, hàng ngày Ngân hàng nhà nước sẽ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (hay gọi là tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng) của VNĐ/USD. Căn cứ theo tỷ giá này mà các Tổng giám đốc, giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ theo nguyên tắc tối đa không quá 0.1% đối với USD, còn đối với các ngoại tệ khác thì được phép tự xác định. Đến 10/7/2002 theo QĐ 679/2002/QĐ – NHNN thì đối với USD các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ sẽ xác định tỷ giá mới mức giao động là +/- 0.25%. Như vậy chính sách này đã điều tiết tỷ giá trên cơ sở thị trường, phản ánh các mặt quan hệ cung - cầu của thị trường.
26/3/1999 thống đốc Ngân hàng nhà nước ký QĐ 101/1999/QĐ – NHNN ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nêu rõ Ngân hàng Nhà nước là người tổ chức, giám sát và điều hành để hình thành nên một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành mua bán một lượng ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để điều tiết tỷ giá một cách khách quan, phù hợp với xu hướng tự do hóa thay vì tác động tới thị giá thị trường qua tỷ giá chính thức một cách chủ quan như trước nữa.
Với cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý mà Việt Nam áp dụng từ 1999 đến nay có một số điểm nổi bật như:
Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá tạo quyền chủ động cho các Ngân hàng thương mại trong việc tự quy định tỷ giá giữa VNĐ và các ngoại tệ khác không phải là USD
Tỷ giá được công bố là tỷ giá bình quân liên ngân hàng, phán ảnh tỷ gái của đồng VNĐ đã được hình thành dựa trên các giao dịch của thị trường và phản ánh tương đối khách quan sức mua của VNĐ so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh, đảm bảo vai trò giám sát của nhà nước. Chính nhu cầu của các doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung, cầu ngoại tệ của doanh nghiệp được thỏa mãn. Việc hình thành tỷ giá theo cơ chế này làm cho tỷ giá được điều chỉnh một cách mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng sự hòa nhập thị trường.
Gọi là cơ chế “thả nổi” do thứ nhất đã được quỹ tiền tệ thế giới IMF công nhận. Thứ hai là do Ngân hàng nhà nước không công bố tỷ giá chính thức mà chỉ thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Thứ ba là trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng mà Ngân hàng Nhà nước thông báo, các Ngân hàng thương mại sẽ tự xác định tỷ giá của tổ chức mình trong biên độ giao động cho phép đối với USD và tự quyền với các ngoại tệ khác,
Cơ chế có điều tiết thể hiện thứ nhất là các Ngân hàng thương mại tự xác định tỷ giá nhưng phải dựa trên tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng với một biên độ dao động cho phép. Thứ hai là tỷ giá bình quân liên ngân hàng là cố định theo ngày. Và thứ ba là tỷ giá bình quân liên ngân hàng không được tự do thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường liên ngân hàng mà trong giới hạn +/- 0.25% so với ngày giao dịch trước.
Vì vậy mà chính sách tỷ giá của Việt Nam sau 1999 được gọi là cơ chế thả nổi có điều kiện.
2.2. Tac dong
Trong nền kinh tế thị trường giá cả là yếu tố quan trọng tác động đến lợi ích kinh tế cảu mọi thành viên trong xã hội. Nếu xét trên lợi ích quốc gia trong nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập, khi thương mại và dòng vốn quốc tế gia tăng mạnh mẽ, thì tỷ giá là yếu tố quan trọng tác động đến lợi ích của mỗi quốc gia trong giao lưu kinh tế quốc tế. Tỷ giá thay đổi sẽ làm thay đổi cán cân thương mại, ảnh hưởng đến sự di chuyển của dòng vốn quốc tế và qua đó ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia.
Trước hết là tác động của chính sách hối đoái lên lạm phát, dấu hiệu đầu tiên để nhận thấy một nền kinh tế phát triển nóng. Từ cuối năm 2007, lạm phát tăng cao là dấu hiệu của nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng nóng. Trong khi những biện pháp kìm chế lạm phát hiện nay như công cụ lãi suất, và nghiệp vụ thị trường mở đã không còn phát huy được hiệu quả thì chính sách về tỷ giá hối đoái được coi là công cụ hữu hiệu nhất.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách duy trì một tỷ giá hối đoái ổn định nhằm giảm nhập siêu, hỗ trợ xuất khẩu, giúp điều chỉnh cung cầu trong nước. Chính sách này của Ngân hàng nhà nước đã đem lại một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc neo giá tiền đồng vào USD đã khiến cho sức mua của VND giảm mạnh khi USD mất giá do nền kinh tế Mỹ đang có nhiều biến động. Điều này gây ra tăng giá tiêu dùng trong nước, một phần đẩy lạm phát tăng lên cao hơn. Do đó, theo các chuyên gia kinh tế, Chính phủ cần xem xét sự cần thiết phải linh hoạt hơn trong trong tỷ giá hối đoái. Tỷ giá của tiền đồng so với USD cần có phản ứng nhanh hơn trước sự lên xuống của đồng USD, không nên giữ tỷ giá hối đoái cố định bất chấp những áp lực của lên xuống giá ngoại tệ. Việt Nam cần phải để một số những áp lực bên ngoài được phản ánh trong tỷ giá hối đoái của tiền đồng như các nước láng giềng đã làm. Điều này sẽ tạo nên hai tác động, làm giảm mức độ lạm phát, và giảm yêu cầu đối với Ngân hàng Nhà nước trong việc mua một lượng lớn tiền mặt, khiến mở rộng cung tiền.
Sau khi gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang ồ ạt đổ vào Việt Nam. Năm 2007, tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đạt 20,3 tỉ USD, vượt xa khỏi những dự đoán dự báo về lượng vốn này. Năm 2008, lượng vốn FDI ước tính đạt hơn 40 tỷ USD. Do sự tăng nhanh của luồng vốn từ bên ngoài cộng thêm nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu ngoại tệ tăng cao, Chính phủ đã chọn giải pháp tránh sự lên giá của của đồng nội tệ so với đô la Mỹ bằng việc phát hành đồng nội tệ để mua đô la Mỹ, tăng dự trữ ngoại hối. Chính sách trung hòa hóa không thực sự hiệu quả và một lượng tiền lớn đã được đưa vào lưu thông là một phần nguyên nhân gây ra lạm phát. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng từ hệ thống ngân hàng gia tăng nhanh chóng, đẩy giá cả hàng tiêu dùng lên cao hơn.
Mặt khác, trong 8 tháng đầu năm 2008, Chính phủ đã trải qua 3 lần điều chỉnh lãi suất, đồng thời vẫn áp dụng các công cụ chính sách thắt chặt tiền tệ ( thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt lãi suất trần mang tính hành chính tuy có mang lại một số hiệu quả nhất định nhưng không phải là biện pháp hữu hiệu trong việc điều chỉnh chính sách hối đoái. Do bị áp đặt các biện pháp hành chính, các Ngân Hàng Thương Mại thiếu thanh khoản, nguy cơ khủng hoảng thanh khoản xảy ra, Ngân hàng Nhà nước xoa dịu thị trường bằng cách bơm lại tiền vào nền kinh tế , đẩy lượng cung tiền tăng lên khiến lạm phát lại bùng nổ cao hơn.
Hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại cũng chịu tác động rất lớn từ tỷ giá hối đoái và những chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Theo thống kê của Bộ Công thương, mức nhập siêu của 7 tháng vừa qua của năm 2008 lên tới 15,01 tỷ USD chiếm hơn 40% kim ngạch xuất nhập khẩu, gấp 2,4 lần so với cùng kỳ năm trước. Trong tình hình nhập siêu như hiện nay, việc điều hành linh hoạt tỷ giá hối đoái có tác động không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Về nguyên lý, biến động tỷ giá hối đoái có tác dụng hai mặt, đó là nếu tích cực sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Chính vì vậy, cần có sự điều tiết hợp lý đối với tỷ giá để có được nguồn vốn đầu tư nước ngoài và khuyến khích xuất khẩu.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng một số công cụ để điều tiết tỷ giá thông qua quy định về dự trữ bắt buộc hay nghiệp vụ thị trường mở nhưng nhiều ý kiến cho rằng, việc sử dụng liều lượng các chính sách này, cũng như hiệu quả thu được từ các chính sách không như mong đợi. Do vậy, thâm hụt thương mại trong thời gian qua là khó tránh khỏi và đang ở mức báo động. Xem xét các dữ liệu thông qua việc phân tích tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực, Vụ Chiến lược phát triển, Ngân hàng Nhà nước chỉ ra rằng, thực chất tiền đồng không hề tăng giá so với đồng USD kể từ năm 2000. Bởi, nếu lấy năm 2000 làm gốc thì tỷ giá VND/USD danh nghĩa tăng khoảng 13,7%, có nghĩa là đồng Việt Nam giảm giá 13,7%. Trong khi đó tỷ giá hối đoái thực cho thấy, đồng Việt Nam lại đang tăng giá khoảng 6,1% so với đồng USD. Mặc dù tỷ giá danh nghĩa tăng nhưng lạm phát của nước ta từ năm 2004 đến nay luôn tăng cao hơn tốc độ lạm phát của Mỹ. Điều này cho thấy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ là bất lợi, mặc dù tăng về kim ngạch nhưng lại giảm về lợi nhuận xuất khẩu. Trong khi đó, theo các chuyên gia tài chính, nếu tính trong một rổ tiền tệ gồm 19 loại đồng tiền, kể cả đồng USD, tỷ giá hối đoái danh nghĩa đồng Việt Nam tăng 2%, tỷ giá thực hiệu quả tăng 11,9%, tức là đồng Việt Nam đang mất giá 11,9% so với rổ tiền tệ. Điều đó cho thấy, tỷ giá hối đoái hiện nay đang có lợi cho xuất khẩu hơn là nhập khẩu. Kết luận này có vẻ như ngược với kết quả thực tế hiện nay khi thâm hụt thương mại đang tăng. Có thể lý giải vấn đề này bằng hai cách: Hoặc là xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thanh toán bằng USD, trong đó rủi ro hối đoái hoàn toàn do phía doanh nghiệp Việt Nam chịu nên độ co giãn tỷ giá nhập khẩu với giá hối đoái rất thấp. Hoặc là do nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư gián tiếp, trực tiếp, kiều hối, và nguồn vốn ODA đổ vào quá lớn làm tăng cung tiền dẫn đến tăng nhu cầu nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng tiêu dùng, trong khi hàng rào thuế quan các nước giảm đáng kể.
Mục tiêu xuất khẩu của nước ta trong năm 2008 là đạt khoảng 58,6 tỷ USD, tăng 10 tỷ USD so với năm 2007. Trong bối cảnh tỷ giá đồng VND/USD và lãi suất huy động có chiều hướng tăng cao đã gây bất lợi cho xuất khẩu. Để kịp thời chia sẻ với các doanh nghiệp nhằm khuyến khích sản xuất, đẩy nhanh xuất khẩu, bên cạnh các biện pháp như tiết giảm chi phí sản xuất - kinh doanh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư xuất khẩu, việc điều hành linh hoạt các chính sách tỷ giá sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu này. .
III_ Kinh nghiệm cho Việt Nam
3.1. Bài học rút ra từ chính sách hối đoái của Trung Quốc
3.2. Hướng đi chính sách hối đoái của Việt Nam
Bài học rút ra từ chính sách hối đoái của Trung Quốc
Sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế trong 20 năm qua có phần đóng góp quan trọng của cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện, nhưng thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua đã thể hiện sự phân tích sâu sắc những bài học của nền kinh tế thị trường từ các nước phát triển và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của Trung Quốc.
Do tính chất và nhiều điều kiện tương đồng trong quá trình phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam; những kinh nghiệm của Trung Quốc sẽ là những bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam để tiếp tục đẩy nhanh quá trình tăng trưởng bền vững.
Từ thực tiễn của Trung Quốc có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong điều hành chính sách tỷ giá hối đoái như sau:
- Chính sách tỷ giá là 1 bộ phận của chính sách tiền tệ và nằm trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế, do đó chỉ có thể đạt được những mục tiêu của mình khi quá trình điều hành được đặt ra trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái cần phải hướng đến thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới phát triển kinh tế bền vững. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy chính sách tỷ giá luôn gắn liền với chính sách quản lý ngoại hối: Nhà nước quản lý ngoại hối chặt chẽ, kết hợp với quản lý dự trữ ngoại hối và ngoại tệ của quốc gia để đảm bảo sử dụng các nguồn ngoại tệ có hiệu quả, góp phần ổn định tỷ giá và thực hiện cân đối cán cân thanh toán quốc tế trong các thời kỳ khác nhau.
Đối với Việt Nam, chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Cụ thể:
+ Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành thị trường ngoại tệ.
+ Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các chính sách và giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ (như lãi suất, cung ứng vốn) nhằm tác động có hiệu quả vào nội tệ từ nhiều góc độ.
+ Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào áp dụng thực tiễn. Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với mục tiêu phát triển thị trường tài chính nói chung để nâng cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
+ Phối hợp hiệu quả với các chính sách vĩ mô khác như ngoại thương, cán cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập người lao động.
Ngoài ra, cần xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền tệ trong nước với quốc tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và tránh nguy cơ tụt hậu.
- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái phải đảm bào hướng đến mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Một thành công lớn trong điều hành tỷ giá ở Trung Quốc là các biện pháp cải cách tỷ giá hối đoái đã tạo ra một cơ chế bảo vệ lợi ích cho nhà xuất khẩu.
- Tuy nhiên, cần chú ý là, mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế khác, trong đó phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường có sự mâu thuẫn với nhau. Một sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong điều hành các chính sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá giảm thiểu được những hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra. Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể tối đa.
Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp (Chính phủ) và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu nếu điều này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế.
- Đối với Trung Quốc, cải cách tỷ giá hối đoái là điều kiện tiên quyết để cải cách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Nếu không có cải cách tỷ giá hối đoái thì cải cách thương mại sẽ không hiệu quả.
- Việc ổn định và nâng cao uy tín đồng tiền quốc gia sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Như đã phân tích kinh nghiệm Trung Quốc, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô cũng như uy tín của đồng tiền quốc gia trên thị trường quốc tế sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vốn lớn vào các dự án của quốc gia đó. Môi trường hối đoái ổn định sẽ giúp quốc gia đó thu hút được các nguồn vốn xuất khẩu trên thế giới.
Nắm vững bài học đó, chúng ta cần không ngừng nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở duy trì sự tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của nội tệ, hướng dần tới mục tiêu đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Một đồng tiền mất uy tín tất yếu làm thương tổn đến tích lũy, đầu tư nội địa, tăng nguy cơ lạm phát, tạo điều kiện cho hội chứng “ngoại tệ hóa.
- Ngoài ra, sự thành công trong điều hành chính sách hối đoái của Trung Quốc cũng cho chúng ta một số gợi ý:
+ Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối với hiệu quả của chính sách tỷ giá.
+ Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại hối, sở thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ..) phản ánh trong tỷ giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và chống đỡ được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn.
+ Chính sách tỷ giá có khả năng dự kiến những diễn biến của tỷ giá cao sẽ tạo khả năng ổn định tương đối dài hạn và giảm thiểu được những rủi ro hối đoái, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài - một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá.
+ Chính sách phá giá đồng nội tệ ở các nước đang phát triển có thể mang lại nhiều lợi ích hơn và phải trả giá ít hơn, xét cả về ngắn hạn và dài hạn (tạo lợi thế so sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, mở rộng nhanh quan hệ ngoại thương, quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh…).
Tính nhạy cảm và khả năng phản ứng của các nhà điều hành chính sách luôn là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của chính sách tỷ giá - mộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.doc