Tiểu luận Chính trị và phát triển xã hội - Con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: PHÁT TRIỂN VÀ MỐI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 2

1.1. Phát triển xã hội - cách tiếp cận 2

1.1.1. Phát triển 2

1.1.2. Phương pháp tiếp cận của chính trị học về phát triển 3

1.3. Những nội dung cơ bản của chính trị và phát triển xã hội 5

Chương 2: ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN XÃ HỘI THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA 10

2.1. Bối cảnh 21

2.2. Các nội dung đổi mới nhận thức về con đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN 11

2.2.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội 11

2.2.2. Xây dựng thể chế nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân 13

2.2.3. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội. Từng bước xây dựng xã hội công dân. 15

2.2.4. Phát triển dân chủ và dân chủ hoá xã hội, bảo đảm cho sự phát triển bền vững 18

KẾT LUẬN 19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3452 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính trị và phát triển xã hội - Con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à tiền đề đi tới nghiên cứu sự phát triển xã hội trong điều kiện xã hội đã xuất hiện quyền lực chính trị. 1.1.2. Phương pháp tiếp cận của chính trị học về phát triển - Các nhà chính trị học mác xít quan niệm rằng con người chính là một bộ phận của giới tự nhiên. Con người xuất hiện là nấc thang cao nhất của sự tiến hoá của tự nhiên và con người trở thành nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, mặc dù sự phát triển của xã hội cũng là quá trình lịch sử tự nhiên - lôgíc nằm ngoài ý muốn của con người, nhưng đó là quá trình phát triển thông qua hoạt động có ý thức của con người nên con người giữ vị trí quyết định sự phát triển xã hội. Từ khi xuất hiện giai cấp và nhà nước, con người tồn tại với tư cách là một thực thể chính trị, là chủ thể quyền lực nhà nước. Từ đó con người luôn luôn có khát vọng và đấu tranh không mệt mỏi vì khát vọng vươn tới tự do, thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tự nhiên và vươn lên chinh phục tự nhiên "mỗi bước tiến trên con đường văn minh là một bước tiến tới tự do"(1) hay "Phát triển là một quá trình làm cho con người hoàn thiện nhân cách của mình, tự tin ở chính mình, là quá trình giải phóng các cư dân thoát khỏi sự lo âu về nhu cầu, về sự bóc lột và đẩy lùi sự áp bức về chính trị, kinh tế, xã hội" (2). Như vậy, chính trị học nhìn nhận sự phát triển xã hội dựa trên quan điểm lấy con người là trung tâm. Phát triển xã hội chính là quá trình tạo lập các điều kiện phát triển của con người, cho người về kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị... Vươn tới sự thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người và xã hội loài người. Như vậy, phát triển xã hội là sự vận động có định hướng của quốc gia, dân tộc trên thế giới nhằm đạt được sự tiến bộ về tăng trưởng kinh tế, công bằng dân chủ, nhân văn, hạnh phúc hay: "phát triển là một quá trình hướng tới việc thiết lập một nền dân chủ ổn định cho phép không ngừng nâng sống cho quần chúng nhân dân theo một cách thức mang tính nhân văn và công bằng. Nói cách khác phát triển là một quá trình tiến hóa đồng bộ của và năm thành tố cơ bản: tăng trưởng, kinh tế, ổn định, công bằng, dân chủ và quyền con người". (B.Gali - TTK - LHQ). Để đi tới một xã hội phát triển theo quan điểm chính trị lấy con người làm trung tâm. Các Quốc gia phải phấn đấu hiện thực hoá các tiêu chí của sự phát triển xã hội là: 1. Tiêu chí tham gia. Chính là mức độ tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước và xã hội với tư cách là chủ thể của các công việc đó. Muốn vậy, chế độ dân chủ phải được xác lập, ngày càng mở rộng và trở thành hiện thực của đời sống. 2. Tiêu chí đồng thuận xã hội. Chính là hệ quả của quá trình được tham của của nhân dân vào các công việc nhà nước và xã hội, làm cho các nhóm xã hội và công dân tham gia vào các hoạt động một cách tự giác, do sự tương đồng về lợi ích của họ quy định. Đồng thuận xã hội được coi là chìa khoá cho phát triển xã hội. 1.3. Những nội dung cơ bản của chính trị và phát triển xã hội Cho đến nay, khoa học chính trị đã nghiên cứu và tiếp cận phát triển xã hội dựa trên ba thành tố cơ bản sau đây. 1.3.1. Phát triển kinh tế thị trường Kinh tế thị trường, cho đến nay, được hầu hết các nhà nghiên cứu Đông, Tây cơ bản thống nhất thừa nhận đó là thành tựu của sự phát triển nhân loại. Chính kinh tế thị trường đã tạo tiền đề cho chính bản thân con người nhận thức đầy đủ hơn về chính chủ nghĩa và xã hội loài người. Kinh tế thị trường từ khi xuất hiện, chỉ trong vòng 300 năm đã tạo ra số của cải xã hội bằng toàn bộ các xã hội trước đó cộng lại, và ngày nay chỉ trong vòng 20 đến 30 năm, của cải thế giới tăng gấp đổi. Dưới tác động của kinh tế thị trường, giác quan của con người được nối dài và mở rộng, làm cho trái đất thậm chí vũ trụ trở nên nhỏ bé và chật hẹp. Con người với tư cách là cơ thể sống cá nhân có điều kiện để nhận được nhiều nhất phúc lợi xây dựng tương ứng với khả năng của họ. Những giá trị chi phối của kinh tế thị trường bao gồm: Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu TLSX và trí tuệ. Đó là sự tất yếu, do quy luật phát triển không đều của xã hội loài người và đặc điểm lịch sử cụ thể, xuất phát triển của các cá nhân, các nhóm xã hội, các quốc gia, dân tộc quy định. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu TLSX cũng có nghĩa là thừa nhận một cách tự nhiên sở hữu cá nhân như là cơ sở đầu tiên của sự phát triển xã hội và còn tồn tại khách quan lâu dài trong các chế độ xã hội khác nhau. Đa dạng hoá sở hữu trí tuệ cũng là tất yếu khách quan khi trí tuệ. Với tư cách là sức vóc. Thần kinh của cá nhân đã được tích hợp thành sản phẩm trí tuệ và tồn tại ngoài đầu óc con người với tư cách là hàng hoá sản phẩm trí tuệ. Kinh tế thị trường với sự đa dạng hoá sở hữu TLSX và trí tuệ sẽ tiếp tục góp phần làm cho LLSX xã hội phát triển mạnh mẽ. Tạo vận hội mới cho các quốc gia dân tộc trên con đường phát triển. - Quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh. Đó là cơ sở động lực để phát triển xã hội. Kinh tế thị trường xác định nhu cầu đầu tư từ nhu cầu xã hội và khai thác tối đa tri thức cá nhân và tri thức nhân loại trong cạnh tranh nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho chủ thể kinh doanh và đóng góp cho xã hội để đạt được yêu cầu đó phải có hệ thống luật pháp và thực thi luật pháp một cách bình đẳng. - Xác định vai trò của nhà nước trong cơ chế thị trường, chính là thể chế hoá cơ chế kinh tế thị trường phù hợp mục tiêu chính trị và bản chất nhà nước, tuy nhiên nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể tham gia thị trường. Các quan hệ kinh tế được xác lập trên cơ sở các hợp đồng. Tuy vậy, nhưng kinh tế thị trường vẫn không phải là chìa khoá vạn năng mà là điều kiện cần thiết cho sự phát triển xã hội. Kinh tế thị trường nếu không được nghiên cứu vận dụng vào kinh doanh lịch sử của nền sản xuất xã hội, không xác định hợp lý vai trò của nhà nước thì tự nó có thể trở thành con ác quỉ, chi phối vào mọi mặt của đời sống xã hội và văn hoá, tạo ra những lực cản của tiến bộ xã hội nhân loại đã chứng kiến sự can thiệp của thị trường vào chính trị, phá hoại sự ổn định chính trị của nhiều nước trên thế giới, kinh tế thị trường tác động vào lòng tham của con người, làm băng hoại đạo đức xã hội, quan hệ gia đình làm mất bản sắc văn hoá dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá v.v. Vì vậy, việc nhận thức đúng các quy luật của nền kinh tế thị trường, thể chế hoá cơ chế vận hành của kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của mối quốc gia là rất quan trọng để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Mọi sự từ chối của chính trị đối với kinh tế thị trường là sai lầm và thất bại. 1.3.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền là yếu tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến sự phát triển xã hội Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài và trong mỗi giai đoạn nhất định của lịch sử loài người đã dựng lên trên bề mặt xã hội các kiểu nhà nước khác nhau đại biểu cho lợi ích giai cấp của các giai cấp thống trị xã hội như chủ nô, phong kiến, tư bản và XHCN. Bên cạnh sự khác nhau trong bản chất của các nhà nước thì tư tưởng pháp quyền đã được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử, về đến giai đoạn CNTB, cùng với sự ra đời và vận hành kinh tế thị trường. Các quốc gia phát triển đã xây dựng được các thể chế nhà nước pháp quyền định hướng xã hội theo các nguyên tắc cơ bản là: - Là nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân. - Hoạt động của các thể chế nhà nước tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch. - Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật đóng vai trò tối thượng, ngự trị trong đời sống xã hội, phản ánh ý chí của nhân dân. Tôn trọng và bảo vệ các quyền thiêng liêng của cá nhân như quyền con người, quyền công dân, quyền cộng đồng, quyền dân tộc - quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc! Đó là những giá trị chung mà nhân loại phấn đấu để đi tới. - Trong nhà nước pháp quyền để đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân, ngăn chặn sự tha hoá và kiểm soát quyền lực, nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung và nhân quyền giữa ba bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước là lập pháp - hành pháp - tư pháp. 1.3.3. Xây dựng xã hội công dân là một yếu tố cho sự phát triển bền vững Theo quan niệm của Mác, xã hội công dân là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của mọi cuộc cách mạng. Nghĩa là xét về logic phát triển loài người đi từ con người công dân (cá thể) tới con người xã hội và cuối cùng đi tới con người xã hội tự quản. Mọi cuộc cách mạng cuối cùng phải đi tới xã hội công dân. Vậy xã hội công dân được hiểu là hệ thống các tổ chức các cộng đồng công dân và quan hệ giữa chúng nhằm hiện thực hoá các cá nhân và nhân cách, nối các cá nhân với hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng thời nó phối hợp với nhà nước trong quá trình tìm kiếm các phương thức tối ưu cho sự phát triển xã hội. Cấu trúc của xã hội công dân bao gồm toàn bộ các tổ chức của công dân ngoài nhà nước, ngoài cơ sở SXKD và lớn hơn gia đình. Theo cách tiếp cận cấu trúc này thì xã hội công dân phản ánh sự đa dạng các hình thức đáp ứng nhu cầu của công dân trong xã hội ngoài nhà nước, ngoài cơ sở sản xuất kinh doanh một cách tự nguyện - nghĩa là công dân tổ chức ra những nhóm xã hội - lợi ích, làm những việc cho mình mà nhà nước không cấm. Nguyên tắc hoạt động của xã hội công dân là; - Tự nguyện - Tự chủ về tài chính - Tự quản Phương thức hoạt động của XHCD là phi lợi nhuận, phi hành chính. Trong nền kinh tế thị trường, xã hội công dân có vai trò tích cực là nói lưu giữ các kỹ năng sản xuất và tổ chức sản xuất. Như các làng nghề truyền thống, các hội nghề nghiệp là những tổ chức lưu giữ và truyền bá kinh nghiệm sản xuất quản lý từ đời này sang đời khác mà nhà nước không thể làm được. Xã hội công dân góp phần định hướng, kiểm soát quá trình phát triển của thị trường, bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển bền vững. Xã hội công dân phát huy sự sáng tạo, phát triển và giữ gìn các giá trong văn hoá, nhân văn, phong tục tập quán truyền thống của cộng đồng dân cư. Trong nhà nước pháp quyền, xã hội công dân bảo đảm cho sự ổn định xã hội, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng tự quản của công dân, làm cho các quan hệ xã hội lành mạnh. Như vậy, mặc dù không phải là chìa khoá vạn năng, không phải là nhất thành bất biến nhưng ba trụ cột: Kinh tế thị trường Nhà nước pháp quyền Xã hội công dân Là sự phản ánh trình độ phát triển về chất các nhân tố của sự phát triển xã hội. Là cơ sở phương pháp chọn, vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi nước trong quá trình phát triển. Chương 2 Đổi mới nhận thức về con đường phát triển xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta 2.1. Bối cảnh Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ của LLSX đang ở giai đoạn thấp. Nền kinh tế còn mất cân đối. Trong thời kỳ quá lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chúng ta có những thuận lợi và khó khăn hiện thực. 2.1.1. Về thuận lợi, đó là tư duy đổi mới đã bắt đầu ăn sâu vào nhận thức và hành vi của con người, là cơ sở cho sự đồng thuận xã hội dựa trên tư tưởng đồng lợi ích tổng thể đã được xác định thành mục tiêu chung là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". - Thành tựu 20 năm đổi mới đem lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử về kinh tế xã hội. Đồng thời cho ta nhiều bài học quý giá trong tổ chức, trong quản lý đất nước và xã hội. - Quá trình hội nhập vào các cơ cấu của nền chính trị và kinh tế thế giới giành được nhiều thành tựu quan trọng, thế và lực của nước ta đã từng bước được nâng cao trên trường Quốc tế. 2.1.2. Về khó khăn thách thức Những nguy cơ của đất nước đã được đại hội Đảng các khoá VII, VIII, IX, X tổng kết vẫn còn nguyên giá trị đặc biệt là nguy cơ về sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới là thách thức cơ bản và lớn nhất. - Quốc nạn quan liêu tham nhũng diễn ra ngày càng gay gắt, đe doạ sự tồn vong của thể chế chính trị. Hệ thống chính trị bộc lộ những tồn tại yếu kém cản trở sự phát triển như tệ quan liêu, hành chính hoá, cồng kềnh kém hiệu quả đang đặt ra đòi hỏi bức thiết về đổi mới hệ thống chính trị trong quan hệ với mục tiêu phát triển xã hội. - Trong Đảng và trong xã hội còn có sự phân tâm trên một số vấn đề quan trọng của đất nước như vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cuộc đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, vấn đề phát huy dân chủ cơ sở, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. - Tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đẩy mạnh diễn biến hoà bình chống phá cách mạng nước ta. Để góp phần phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục và đẩy lùi những nguy cơ của đất nước. Dựa trên cách tiếp cận chính trị và phát triển xã hội. Đổi mới nhận thức về đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN bao gồm một số nội dung sau: 2.2. Các nội dung đổi mới nhận thức về con đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN 2.2.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội Kinh tế thị trường được nhận thức như một quy luật tất yếu của sự phát triển xã hội, đặc biệt đối với nước ta, một nước mà trình độ LLSX đang ở giai đoạn tiền TBCN. Thể chế kinh tế thị trường ở nước ta đã hình thành từ đại hội VI với cơ chế: Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN" và đến nay đại hội X đã khẳng định "xây dựng thể chế kinh tế thị trường định XHCN". ứng với thể chế kinh tế này, Đảng ta tiếp tục khẳng định nền kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là lần đầu tiên trong văn kiện Đảng thừa nhận quyền làm kinh tế tư nhân không hạn chế về quy mô đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tiếp cận chính trị và phát triển xã hội, cần tiếp tục thể chế hoá quyền bình đẳng thực sự của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế và phải thực sự có nhận thức đúng đắn vai trò của kinh tế tư nhân như là "yếu tố động lực" của nền kinh tế. Bởi vì trong quá trình phát triển xã hội, kinh tế tư nhân là lực lượng năng động nhất có khả năng thích ứng nhanh và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Vả lại trong điều kiện nhà nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đang xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường do vậy đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân nhất định là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cần tiếp tục làm rõ liệu có phải chỉ có kinh tế nhà nước là chủ đạo hay không trong điều kiện nền kinh tế đang vận động ở giai đoạn kinh tế tư nhân nhỏ yếu, đang định hướng phát triển các hình thức rễ hiểu hỗn hợp như công ty cổ phần và đang từng bước nghiên cứu hoàn thiện thần phần kinh tế tư bản nhà nước. Vì vậy sự chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ đó là vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước đối với nền kinh tế theo định hướng xã hội, chứ không chỉ là vai trò của kinh tế nhà nước. Trong quản lý điều hành các doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục đổi mới, phải chống độc quyền triệt để trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời trao doanh nghiệp nhà nước cho những người thực sự tài năng quản lý, hạn chế đi tới xoá bỏ cơ chế kết hợp công chức hành chính với chức danh quản lý doanh nghiệp và công tác quản lý doanh nghiệp theo nguyên tắc quản lý cán bộ công chức. Đồng thời thông qua công cụ quản lý vĩ mô, nhà nước tạo ra sân chơi bình đẳng cho hoạt động các doanh nghiệp - mở đường cho sự đãi ngộ xứng đáng các giám đốc doanh nghiệp làm ăn có lãi, góp phần xứng đáng vào sự phát triển nền kinh tế đất nước. Đẩy mạnh kết nạp các chủ doanh nghiệp tư nhân các tầng lớp xã hội tiêu biểu trong làm ăn, chấp hành pháp luật có ý thức tự tôn dân tộc và thừa nhận mực đích tôn chỉ đường lối, chính sách của Đảng vào Đảng. Đổi mới sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh để bảo đảm thúc đẩy môi trường tự do kinh doanh theo pháp luật, đồng thời làm cho tổ chức Đảng trở thành chỗ dựa chính trị, tinh thần của doanh nghiệp và người kinh doanh. Đề cao vai trò của văn hoá kinh doanh trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và sự hội nhập sâu của nước ta vào nền kinh tế thế giới. 2.2.2. Xây dựng thể chế nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân Thể chế nhà nước pháp quyền XHCN đã được thể chế trong hiến pháp 1992 (sửa đổi) năm 2002. Tư tưởng đó tiếp thụ được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định. Vì đó là cơ sở bảo đảm của mô hình tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đang hình thành và trở thành nhu cầu bức xúc của quản lý xã hội. Dưới cách nhìn chính trị và phát triển xã hội đang đặt ra một cách nghiêm túc việc thiết kế hệ thống nhà nước pháp quyền Việt Nam trên cơ sở kế thừa các giá trị chung của tư tưởng pháp quyền và các mô hình các thể chế pháp quyền trong lịch sử gắn với điều kiện lịch sử, chính trị văn hoá, xã hội Việt Nam. ở đây cần quan tâm một số vấn đề chủ yếu sau. Thứ nhất, cần đổi mới nhận thức về quan niệm sở hữu quyền lực và sử dụng quyền lực, xét về mặt sở hữu quyền lực thì thuộc về nhân dân, nhưng với tư cách là sử dụng quyền lực được nhân dân uỷ quyền thì việc sử dụng quyền lực phải được phân chia một cách khoa học, khách quan và phải có cơ chế kiểm tra, giám sát, chống sự lạm dụng, tha hoá quyền lực hoặc vô quyền. Với nhận thức như vậy, ở nước ta cần đổi mới nhận thức: quyền lực nhà nước là thống nhất, không có sự phân chia; chỉ có sự phân công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước giữa ba bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước là hợp pháp, hành pháp và tư pháp; phải khẳng định rằng về mặt bản chất, quyền sở hữu quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhưng về sử dụng quyền lực phải phân chia một cách rõ ràng giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi nhánh quyền lực có phạm vi nhiệm vụ quyền hạn, cơ chế thực thi quyền lực khoa học, khách quan. Cơ chế phối hợp giữa các nhánh quyền lực chính là cơ chế bảo đảm các thủ tục pháp lý bảo đảm tính thống nhất trong tuân thủ pháp luật, hiệu lực, hiệu quả và thời gian ngắn nhất, giải quyết những yêu cầu pháp luật. Cơ chế phối hợp đó phải thể chế thành chế định và quy phạm pháp luật, không có sự tuỳ tiện và ngoại lệ. Thứ hai, để giải quyết đúng đắn vấn đề quan trọng này, cần đổi mới nhận thức về Đảng cầm quyền trong nhà nước pháp quyền XHCN, và phương thức tổ chức hệ thống chính trị cho phù hợp. Nhận thức về Đảng cầm quyền đã được Đảng ta khẳng định trong các văn kiện đại hội và các nghị quyết của Trung ương, với nội dung tổng quát là. - Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội thông qua đường lối, chiến lược, sách lược, nghị quyết của Đảng. - Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống tổ chức của Đảng và đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng trong các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị nhằm thể chế hoá đường lối của Đảng thành pháp luật nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảng không bao biện làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo do không thực hiện đúng chức năng lãnh đạo của mình. Tuy nhiên, thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề xung quanh phạm vi và phương thức lãnh đạo của đảng. Thực trạng khá phổ biến là chưa nhận định rạch ròi phạm vi và phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động của nhà nước và hệ thống chính trị. Biểu hiện ra trong thực tiễn là Đảng can thiệp sâu vào chức năng quản lý nhà nước nhất là ở địa phương và cơ sở thậm chí vô hiệu hoá ở những mức độ khác nhau về thực thi quyền lực nhà nước. Tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, vi phạm pháp luật nhà nước của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ xét về sâu xa có liên quan đến phương thức lãnh đạo, của Đảng đối với hệ thống chính trị. Chính vì vậy trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân phải thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng thành pháp luật, làm cho pháp luật chiếm vị trí thống trị trong đời sống xã hội. Lãnh đạo bằng pháp luật ( thông qua pháp luật) là phương thức chủ yếu về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. 2.2.3. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội. Từng bước xây dựng xã hội công dân Đây là vấn đề lớn và rất nhạy cảm bởi vì qua quá trình cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn luôn chủ trương mở rộng đại đoàn kết toàn dân thông qua các tổ chức chính trị xã hội đó là: - Mặt trận tổ quốc Việt Nam. - Đoàn TNCS Hồ Chí Minh - Hội liên hiệp PN Việt Nam - Hội Nông dân Việt Nam - Hội Cựu chiến binh Việt Nam Đó là 6 đoàn thể chính trị xã hội là cơ sở chính trị trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong lịch sử được tổ chức dưới hình thức tự nguyện, tự chủ và tự quản trong khuôn khổ mục tiêu chính trị của Đảng là đánh đuổi Nhật, Tây, giành độc lập dân tộc; đánh đổ phong kiến để xây dựng tổ quốc. Và các tổ chức đoàn thể cách mạng đã có những đóng góp cực kỳ to lớn cho việc thực hiện các mục tiêu của cách mạng. Từ sau khi giành được chính quyền các tổ chức chính trị xã hội đã được tổ chức thành hệ thống có bộ máy theo hệ thống 4 cấp song song tồn tại với hệ thống Đảng và chính quyền nhà nước. Toàn bộ hoạt động của các tổ chức này theo phương thức tổ chức của Đảng, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ thông qua các đại hội, các hội nghị trung ương, địa phương, cơ sở. Tổ chức hoạt động theo hệ thống dọc và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng theo hệ thống ngang. Toàn bộ kinh phí hoạt động của các đoàn thể đều lấy từ ngân sách nhà nước. Đến nay, đang bộc lộ những bất cập về tổ chức và phương thức hoạt động là: - Về tổ chức: Biểu hiện rõ của bộ máy hành chính quan liêu cồng kềnh không hiệu lực. - Về phương thức hoạt động. Biểu diễn của hành chính mệnh lệnh thông qua chỉ thị, nghị quyết hướng dẫn. - Về đối tượng tập hợp: trùng lặp về đối tượng. - Về tài chính: Bao cấp rất nặng nề. - Về hiệu quả kinh tế - xã hội mang lại rất hạn chế trừ một số hoạt động mang tính biểu dương lực lượng, vận động xã hội tham gia xoá đói giảm nghèo, cứu trợ (việc này trong điều kiện nhà nước pháp quyền, xã hội công dân thực hiện rõ đem lại hiệu quả cao hơn). Dưới cách nhìn chính trị và phát triển xã hội và bằng thực tiễn phong phú trong quá trình tham gia hoạt động chính trị xã hội tôi thấy phải đổi mới nhận thức và kiên quyết đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội. 1. Mục đích:- Hướng tới xây dựng xã hội công dân - Bảo đảm các nguyên tắc XD nhà nước pháp quyền - Giải phóng khả năng sáng tạo và ý thức chính trị công dân. - Tiết kiệm ngân sách và nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển 2. Nội dung đổi mới tổ chức của các Đoàn thể chính trị xã hội Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, các mối quan hệ trong xã hội chủ yếu là: nhà nước với công dân. Công dân với công dân. Vì vậy cần phải thiết kế lại tổ chức các đoàn thể chính trị xã hội theo hướng như sau. - Chuyển tổ chức và hoạt động của mặt trận tổ quốc và các thể chính trị xã hội sang hoạt động theo nguyên tắc - Tự nguyện - Tự quản - Tự chịu trách nhiệm tài chính. Theo quy định của pháp luật về hội.Tạo ra sự bình đẳng giữa tất cả các tổ chức trong nhà nước pháp quyền. - Tổ chức lại bộ máy các đoàn thể theo nguyên tắc gọn nhẹ, năng động và hệ thống 2 cấp trung ương và cơ sở như tổ chức hiện nay của hội người cao tuổi Việt Nam, giáo hội nhật giáo Việt Nam, uỷ ban đoàn kết công giáo Việt Nam. Còn ở các cấp địa phương nếu cần thiết thì các hội tổ chức ra ban đại diện. Vì sao vậy? Bởi vì nếu tiếp tục giữ 6 đoàn thể chính trị xã hội như hiện nay thì tại sao hội liên hiệp TN Việt Nam không phải là tổ chức chính trị xã hội như hội liên hiệp phụ nữ? và các hội như Hội văn học nghệ thuật, báo chí, kiến trúc, hội trù chính trị, hội cựu giáo chức v.v. Có thực hiện chức năng chức năng chính trị xã hội không?. Câu trả lời là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, vai trò của họ quan trọng như sau. Nhưng đưa tất cả vào khái niệm chính trị xã hội thì nguy cơ một nhà nước quan liêu trống rỗng về tài chính xuất hiện - Mặt khác xét về đối tượng thì các tổ chức chính trị xã hội về cơ bản trùng lặp về đối tượng vận động và rất trìu tượng về kết quả. Tuy nhiên, nhà nước cần đầu tư nhiều hơn vào việc phát triển các cân đối chiến lược của đất nước, như nguồn nhân lực trẻ, bình đẳng giới do vậy theo tôi nên sớm nghiên cứu thành lập hai cơ quan nhà nước sau đây: 1- Uỷ ban Thanh niên Việt Nam. 2- Uỷ ban về các Vấn đề phụ nữ. Hai uỷ ban này sẽ giúp nhà nước nghiên cứu các chính sách về chiến lược phát triển Thanh niên và bình đẳng giới, và là cơ quan quản lý nhà nước về giới của nhà nước ở trung ương, góp phần giải quyết vấn đề quan trọng nhất về nguồn nhân lực và tiến bộ xã hội. 2.2.4. Phát triển dân chủ và dân chủ hoá xã hội, bảo đảm cho sự phát triển bền vững Do đặc điểm quá trình cách mạng nước ta phải trải qua chiến tranh, thù trong giặc ngoài rất gian khổ. Nhân dân ta chỉ mới làm quen với dân chủ trong cơ chế chỉ huy chiến tranh, chủ yếu là quyền tự nguyện hy sinh cho tổ quốc để đổi lấy giá trị cao nhất là độc lập tự do. Ngày nay đất nước và thời đại đã có nhiều đổi thay kỳ diệu. Trong mối qua hệ chính trị và phát triển xã hội Đảng, nhà nước ta cần đẩy mạnh nghiên cứu hệ giá trị về dân chủ XHCN ở Việt Nam. Thể chế hoá đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan.doc
Tài liệu liên quan