Tiểu luận Chủ nghĩa duy vật và vai trò của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay

 Mục lục

 Mục trang

A. Tổng luận .4

1.Ly do chọn đề tài .4

2.Mục đích nghiên cứu .4

3.Đối tượng nghiên cứu 4

4.Nhiệm vụ nghiên cứu 4

5.Giới hạn đề tài .4

6.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.5

B. Nội dung .5

 I. Cơ sở việc nghiên cứu .5

 1. Cơ sở ly luận 5

 2. Cơ sở thực tiễn .6

 Ii. Thực trạng vấn đề nghiên cứu .6

1. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 7

2. Vai trò trong đời sống Việt Nam 8

3. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước .11

4. Hạn chế .13

III. Giải pháp đề xuất .14

C. Kết luận .15

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 19921 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chủ nghĩa duy vật và vai trò của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Mục trang Tổng luận………………………………………………..4 1.Ly do chọn đề tài……………………………………...4 2.Mục đích nghiên cứu………………………………….4 3.Đối tượng nghiên cứu…………………………………4 4.Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………4 5.Giới hạn đề tài………………………………...............4 6.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu..5 B. Nội dung………………………………………………...5 I. Cơ sở việc nghiên cứu………………………………..5 1. Cơ sở ly luận…………………………………………5 2. Cơ sở thực tiễn……………………………………….6 Ii. Thực trạng vấn đề nghiên cứu………………………..6 Nội dung chính của phép biện chứng duy vật……… 7 Vai trò trong đời sống Việt Nam……………………8 Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước……………….11 Hạn chế…………………………………………….13 III. Giải pháp đề xuất………………………………….14 Kết luận………………………......................................15 A.TỔNG LUẬN: 1. Ly do chon đề tài: Triết học – khoa học của mọi khoa học ra đời mang theo rất nhiều vấn đề cần bàn cãi. Theo Angghen: ‘’Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan he giữa tư duy với tồn tại’’. Nói cách khác, một trong những câu hỏi lớn của triết học là: ‘’Giữa vật chất và ‎ thức thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?’’. Việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi hóc búa này đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn : chủ nghĩa duy vật- gồm những trường phái, những nhóm người cho rằng vật chất , giới tự nhiên là cái có trước van quyết định ‎ thức của con người. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm – những trường phái cho rằng ‎ thức, tinh thần là cái có trước vẫn quyết định hơn cả. Trong khi đó, vấn đề cơ bản của triết học cũng được coi là vấn đề mà con người ta thường gặp phải trong quá trình hoạt động. Vì vậy việc giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học cũng cần thiết như việc giải quyết chình những vấn đề của con người trong bất cứ hoạt đọng thực tiễn nào – dù chỉ là một khía cạnh nhỏ - chủ nghĩa duy vật- mà trong bài tiểu luận này em sẽ trình bày. 2. Mục đích nghiên cứu: Như đã nói ở trên, triết học là một bộ phận không thể tách rời trong bất cứ hoạt động thực tiễn nào cũng như việc xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người sẽ có những định hướng và cách giải quyết những vấn đề gặp phải trong cuộc sống một cách hợp ly nhất. Lênin cũng đã chỉ rõ chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa của triết học Mác. Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp thu và có những phương hướng chỉ đạo đúng đắn trong việc xây dựng cũng như cải tạo xã hội, phù hợp với tình hình thực tế đất nước. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật cũng như của triết học Mác– Lênin nói chung là những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, y thức, xã hội. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa duy vật . 5. Giới hạn đề tài: Xã hội Việt Nam hiện nay. 6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm phương pháp duy vật biện chứng van duy vật lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp,… B. Nội dung: I. Cơ sở việc nghiên cứu 1. Cơ sở ly luận: Chủ nghĩa duy vật là gì? Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không - tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩ duy tâm. 2. Cơ sở thực tiễn: Chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát triển của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của gai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát hóa những tri thức của nhân loại về nhiều linh vực. Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này đã ly giải toàn bộ sự sinh thanh của thế giới tiừ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đàu tiên, là bản nguyên của thế giới. Những ly giải về thế giới lúc này còn mang tính trực quan nên những kết luận về thế giới còn ngây thơ, chất phác. Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX. Chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển, tuy chưa hoàn thiện nhưng trong giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời phục hưng ở các nước Tây Âu cũng góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ăngghen sáng lập từ những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và phát triển, kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa hoc tự nhiên đương thời. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật: Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã cung cấp thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một cách thần thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm Hêghen. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu: 1. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật: Ph.Angghen cho rằng: ’’Phép biện chứng ... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội lòai người và của tư duy’’. Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng duy vật. Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện chứng là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối của sự vật". Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù ( phần tử - hệ thống, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định). Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền triết học trước Mác che giấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội. Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động. Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen luận chứng trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), "Chống Đuy -rinh" (1876 - 1878), "Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" và một số tác phẩm do V.I.Lênin viết như: "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" (1908 - 1909), "Bút ký triết học". Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công phép biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất. 2. Vai trò của chủ nghĩa duy vật trong đời sống xã hội Việt Nam Phép biện chứng là một phương pháp nghiên cứu xem xét các sự vật hiện tượng trong mối liên hệ giữa các mặt và giữa các sự vật hiện tượng đó và trong sự đứng im tương đối. Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của CNTB, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường quá độ lâu dài, mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách mạng nước ta là quá trình vừa phải kế thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản. Con đường quá độ lên CNXH ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát triển và sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên CNXH, nhất là hướng tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự thống nhất của các mặt đối lập thông qua các biện pháp trung gian và quá độ. Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn CNTB, không thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là không thể có trong CNXH, càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô hình CNXH ở nước khác để xây dựng nước ta. Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng thành công CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác - Lênin làm kim chi nam cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các XHCN, TBCN trên thế giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại gặp phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của thị trường thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của xã hội. Tuy nhiên cơ chế thị trường đồng thời kích thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ thị trường, gây ra khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của nền kinh tế XHCN là xây dựng một Nhà nước "của dân, do dân, vì dân", xây dựng một xã hội "công bằng văn minh". Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Để giữ vững bản chất CNXH trong phát triển kinh tế Nhà nước cần sử dụng các công cụ của mình để tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội được hưởng thành quả trong phát triển kinh tế. Nhà nước có thể sử dụng các công cụ như thuế thu nhập cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập xã hội; xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển xã hội. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN. 3. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối phát triển kinh tế xã hội: a, Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần Sau độc lập, nền kinh tế nước ta còn gặp vô vàn khó khăn do thói quen lao động tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ lẻ, trình độ khoa học kém phát triển, đời sống xã hội vô cùng khó khăn… Với hoàn cảnh mới, đất nước tiến lên CNXH, đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thời gian qua, chúng ta quá coi trọng vai trò của quan hệ sản xuất, cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường san đất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quan niệm ấy là sai lầm, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời gian qua là minh chứng cho điều ấy và do đó gây ra sự mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mối mâu thuẫn ấy đã đem theo nhiều hậu quả ngoài ý muốn: Kinh tế kém phát triển, xã hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn, trình độ quản lý yếu kém… yêu cầu cấp thiết là phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế - xã hội. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Đó là sự cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi, nâng cao đời sống xã hội,… Như lời của đồng chí Lê Khả Phiêu nói: "… không chất nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản nhưng không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với CNTB trên cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt". Hay quan điểm từ Đại hội Đảng VI cũng khẳng định: không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể mà còn phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kì quá độ. b, Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong công cuộc Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa: CNH- HĐH được xem xét từ tư duy triết học là thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ biện chứng của phương thức sản xuất. Muốn CNH-HĐH đất nước cần phải có tiềm lực về kinh tế, con người, trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Với tiềm năng lao động lớn nhưng công cụ lao động lại hết sức thô sơ lạc hậu, CNH-HĐH đứng trước khó khăn lớn cần nhanh chóng khắc phục. Đảng ta đã thực hiện một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lí và trong thời cơ cũng như thách thức to lớn hiện nay, đất nước ta đang có rất nhiều tiềm năng phát triển, mà cốt lõi của sự phát triển ấy vẫn là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mục tiêu CNH-HĐH đất nước đang được nỗ lực thực hiện và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Cùng với nó vẫn là những khó khăn, hạn chế song tương lai phát triển đất nước vẫn mang nhiều yếu tố khả quan. 4. Hạn chế: Mặc dù trải qua quá trình lâu dài ra đời trong nhiều lĩnh vực thưc tiễn nhưng chủ nghĩa duy vật nói riêng cũng như khoa học triết học nói chung vẫn còn nhiều mặt hạn chế, cần hoàn thiện hơn trong tương lai. Và những thế hệ sau Lênin vẫn còn tiếp nối con đường Chủ nghĩa xã hội mà ông đã gây dựng một cách bền bỉ, không ngừng. Chính vì vậy, sự ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật đối với xã hội Việt Nam cũng còn chưa sâu rộng. Do nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật chưa xác được nhiều. Mặc dù cơ cấu các ngành trong GDP có chuyển dịch rõ rệt nhưng cơ cấu lao động chậm biến đổi. Hiện nay hơn 75% dân số vẫn sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp vẫn chiếm > 60% tổng số lao động xã hội. Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng, hiệu quả còn thấp. Đất nước Việt Nam vẫn thuộc 20 nước nghèo nhất thế giới. Đây là thách thức cực kì to lớn cần phát huy mọi tiềm năng để giải quyết. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn yếu: khả năng kiềm chế lạm phát còn chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ chi, tỉ lệ bội chi ngân sách còn cao. Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỉ cương còn nặng và phổ biến. Nạn buôn lậu và tệ quan liệu được coi là quốc nạn, được đưa vào chương trình nghị sự quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Song hiện nay vẫn chưa chống được, thậm chí còn có phần nghiêm trọng hơ Hạn chế trong nền kinh tế xã hội nước ta còn nhiều. Nguyên nhân của những yếu kém đó là do hậu quả của nhiều năm trước để lại khi không hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, sự phù hợp mang tính tất yếu của chúng, đòng thời những bất lợi của tình hình thế giới hiện nay và những khuyết điểm còn mang tính chủ quan duy ý chí trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ta. III. Giải pháp đề xuất: Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích cực của mình đối với thực tiễn. Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc xây dựng đất nước, vai trò của Đảng là vô cùng quan trọng. Vì vậy, để nền kinh tế- xã hội phát triển, Đảng cần nắm ró các quy luật, nguyên ly cơ bản để có định hướng đúng đắn cho các hoạt động. Tuyệt đối không quá cứng nhắc mà phải biết vận dụng linh hoạt, kết hợp giữa tất cả các trường phái triết học, để có được cái nhìn tổng quan, có thể hoạch định một số vấn đề của đất nước trong tương lai gần. ‘’Phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc van chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin van tư tưởng Hồ Chí Minh’’, phải ‘’ Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển ly luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra’’- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót và thiệt hại C. KẾT LUẬN: Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về sự thống nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học và có ý nghĩa về phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại nó gắn bó hết sức chặt chẽ với cuộc sống, thực tiễn, chỉ đạo cho con người hành động. Nắm vững được mọi nội dung của triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn sẽ làm cho con người làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải tạo được xã hội, phát triển kinh tế mạnh mẽ. Trên thực tế không thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất song phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu vô cùng to lớn cho nền kinh tế - xã hội nước ta, hoàn thành tốt mục tiêu CNH - HĐH đất nước. Tuy vậy, hạn chế, yếu kém vẫn còn rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực hết sức, phát huy mọi tiềm năng vốn có để khắc phục. Chúng ta thừa nhận chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhânl‎ luận của thế giới quan khoa học; là phép biện chứng duy vật với tư cách là ‘’học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất van không phiến diện’’; là chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cachs là he thing các quan điểm duy vậtbiện chứng về nguồn gốc, động lực van những quy luật chung của sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Thế nhưng trong cuộc sống, thực tế chúng ta phải linh hoạt kết hợp với cả chủ nghĩa duy tâm để có những hướng đi hợp ly trong từng trường hợp cụ thể. Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của tri thức, trong quá trình xây dựng van phát triển đất nước đòi hỏi mỗi con người phải luôn tích cực tu dưỡng đạo đức cũng như lao động. Là một sinh viên, nhiệm vụ hàng đầu vẫn là học tập, bản thân em thấy mình cần chăm chỉ học tập, nghiên cứu, để có những nhận thức đúng đắn về môn học nói riêng và về định hướng sống của mình nói chung. Hiểu và biết vận dụng linh hoạt những phép biện chứng, các phạm trù, các quy luật tất yếu của tự nhiên là điều vô cúng cần thiết. Mà quan trọng hơn hết là ngay bây giờ phải có được mục tiêu học tập cụ thể, thài độ, y thức học nghiêm túc. Có vậy chúng ta mới có thể trở thành những con người có ích cho xã hội, sẵn sàng tiếp thu, bảo vệ van phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bài tiểu luận có tham khảo các tài liệu: Giáo trình Triết học Mác-Lênin – Bộ GDĐT Giáo trình những nguyên ly cơ bản của CN Mác-Lênin – Bộ GDĐT Những nguyên ly cơ bản của CN Mác-Lênin – Bộ GDĐT Và một số tài liệu khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21383.doc
Tài liệu liên quan