Tiểu luận Chức năng giám sát được xác định là chức năng không thể thiếu của quốc hội nhằm đảm bảo cho quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả

Ủy ban thường vụ quốc hội là ‘cơ quan thường trực quốc hội’, thay mặt quốc hội giám sát việc thi hành hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội đối với hoạt động của chính phủ, tòa án nhân dân tố cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giữa 2 kì họp

Căn cứ vào chương trình giám sát đã được thông qua , ủy ban thường vụ quốc hội phân công thành viên của ủy ban chịu trách nhiệm về từng nội dung giám sát cũng như quyết định những vấn đề giao cho hội đồng dân tộc, các ủy ban quốc hội giám sát, ủy ban thường vụ quốc hội cũng quyết định tiến độ thực hiện chương trình giám sát và các biện pháp bảo đảm khác.

Ủy ban thường vụ quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với chính phủ, toa án nhân dân tối cao, viện kiếm sát nhân dân tối cao băng các biện pháp chủ yếu là:

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chức năng giám sát được xác định là chức năng không thể thiếu của quốc hội nhằm đảm bảo cho quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y cho phép quốc hội thể hiện mình là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Những chức năng quan trọng này của quốc hội có sự thống nhất và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông qua nhiệm vụ lập hiến và lập pháp ( tức là bằng các đạo luật) quốc hội thực hiện các nhiệm vụ khác của mình . Như quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ,chính sách tiền tệ và các lĩnh vực tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.Ngược lại thông qua việc thực hiện chức năng giám sát của mình mà quốc hội kiểm tra lại chất lượng các đạo luật và các quyết định do mình ban hành để có thể đề xuát sáng kiến sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và nâng cao chất lượng của chúng. Cứ như thế trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hiểu quả và hiệu lực của các hoạt động lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao ngày càng được nâng cao. III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT 1. Giám sát là gi? Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giám sát nên ngay từ khi quốc hội thành lập nhà nước ta đã quy định đây là một trong những chức năng khôngt hể thiếu của quốc hội. Tuy nhiên để đánh giá một cách toàn diện về chức năng này của quốc hội, chúng ta cần làm rõ về giám sát Hiện nay cách diễn đạt và biểu hiện ý của từ “giám sát” có khác nhau , nhưng chúng có những điểm chung nhất là: _”Giám sát” dùng để chỉ các hoạt động theo dõi , xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định _”Giám sát” luôn luôn gắn liền vơíi một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được câu hỏi: ai(hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định. _“Giám sát”cũng luôn gắn với 1 đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được câu hỏi giám sát ai? Giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó phân biệt giữa” giám sát” và “ kiểm tra” .Kiểm tra thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sư tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự chủ thể kiểm tra của chủ thể hoạt động . Nói cách khác tự chủ thể hoạt động xem xét kĩ để đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc đang làm. Nhưng giám sát thì không có tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi ,xem xét chính hoạt động của mình. _”Giám sát” phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại “Giám sát” phải được tiến hành trên những căn cứ nhất định, đó là những quy định do chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát đặt ra. Nếu như không có những quết định này thì không có cơ sở để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát, dưa ra những nhận định về hoạt động ở đối tượng chịu sự giám sát. _”Giám sát” luôn là hoạt động có tính mục đích . Mục đích của giám sát là luôn có được những nhận định chính xác của chủ thẻ có quyền giám sát đối với hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát và từ đó có biện pháp xử lí đối với những việc làm trái quy định của đối tượng chịu sự giám sát. Đảm bảo cho những quy định của chủ thể có quyền giám sát được thực hiện đúng và đầy đủ. 2. Các cơ quan có quyền giám sát Theo luật hoạt động giám sát của quốc hội năm 2003 thì “ giam sát là việc quốc hội, uy ban thường vụ quốc hội, hội đồng dân tộc, ủy ban của quốc hôi, đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu quốc hội theo dõi xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan , tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành hiến pháp , luật , nghị quyết của quốc hội, pháp lệnh , nghị quyết của ủy ban thường vụ quốc hội” (Điều 2_ luật về hoạt động giám sát của quốc hội). Như vậy ở đây chúng ta thấy rằng : chủ thể của hoạt động giám sát là quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội, hội đồng dan tộc, ủy ban của quốc hội, đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu quốc hội. Đối tượng chịu sự giám sát là các cơ quan, tổ chức , cá nhân trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và nhân dân cả nước. Hoạt động giám sát được thực hiện thông qua việc tiến hành theo dõi, xem xét đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành hiến pháp ,luật ,nghị quyết của quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thương vụ quốc hội Hiện nay trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta, không chỉ có những chủ thể vừa nêu trên mới có chức năng giám sát . Hoạt đọng giám sát cũng là một trong nhũng chức năng của VKSND,TAND,HDND...Tuy nhiên hoạt đọng giám sát của những cơ quan này là có sự khác nhau 3. Giám sát của quốc hội a : Giám sát của quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước.Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác_LêNin về nhà nước, muốn quyền lực thực sự là của nhân dân thì phải tập trung thống nhất quyền lực nhà nước cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân là quốc hội, và vì vậy trong nhà nước XHCN quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hiến pháp của các nước XHCN trước đều quy định và thể hiện nguyên tắc thống nhất, tập trung quyền lực trong tố chức bộ máy nhà nước. Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy định về vị trí pháp lý của quốc hội thể hiện qua các bản hiên pháp của quốc hội nước ta. Như vây “ quyền giám sát việc tuan theo hiến pháp và pháp luật là một biện pháp không thẻ tách rời của quyền lực nhà nước và quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất .” Do đó quốc hội nắm quyền giám sát tói cao việc tuân theo hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước. b : Những căn cứ để quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Để bảo đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát, bảo đảm cho quốc hội thực hiẹn quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của hiến pháp và luật khi thực hiên quyền giám sát của mình, quốc hội phải có những căn cứ nhất định: _Thứ nhất: Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội, pháp lệnh của ủy ban thường vụ quốc hội, vì đó la chuẩn mực, là thước đo, la căn cứ nhận định nội dung của một văn bản nào đó hoặc một việc làm nào đó của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của quốc hội là hợp pháp hay là không hợp pháp. _Thư hai: Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan nhà nứoc chịu sự giám sát của quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tếhoạt động của nhưng cơ quan nhà nước đó. Trong trường hợp cần thiết, quốc hội có thể chất vấn hoặc đi xem xét thực tế xem tình hình co đúng như với các cơ quan nhà nước đã báo cáo không . c : Đăc điểm giám sát tối cao của quốc hội ? Sự khác nhau giữa giam sát của quốc hội và giám sát của các cơ quan nhà nước khác _Giám sát của quốc hội là giám sát tối cao và nó có một số đăc diêm riêng như sau: . Quyền giám sát của quốc hội mang tính quyền lực nhà nước cao nhất. . Hoạt động giám sát của quốc hội mang tính tổng quát nhất, bao trùm nhất, mang tính định hướng nhất định đối với những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, những vấn đề mà nhân đân cả nước quan tâm. . Hoạt động giám sát của quốc hội được tiến hành với các điều kiện bảo đảm ở mức độ tin cậy cao nhất, toàn diện trên các mặt: Báo cáo, cung cấp thông tin, tư liệu,số liệu và các điều kiện đảm bảo khác. . Áp dung nhiều biện pháp mang tính quyền lực nhà nước cao nhất để xử lý những vấn đề nảy sinh trong giám sát và chịu trách nhiệm pháp lý đối với những người bị giám sát. . Hoạt động giám sát của quốc hội quan hệ trực tiếp và tác động trực tiếp đến hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhẩt trong hoạt động lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. _Từ những phân tích trên chung ta thấy rằng: Sự khác nhau căn bản giữa quyền giám sat tối cao của quốc hội với quyền giam sát việc tuân theo hiến pháp và luầt của các cơ quan nhà nước khác như: TAND, VKSND, HDND...là ở đối tượng chịu sự giám sát và thẩm quyền giải quyết cũng như phương thức hoạt động. Giám sát của quốc hội là giám sát tối cao vì nó do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện, nó giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cao nhất, hiệu lực pháp lý của nó là cao nhất vì các nghị quyết của quốc hội phải co giá trị pháp lý như là một văn bản buộc các co quan nhà nước phải thực hiện. Về phương thức, quốc hội là cơ quan dân cử, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không theo cách làm việc với chế độ thủ trưởng như các cơ quan nhà nước khác. IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI Chủ thể giám sát. Như chúng ta đã biết, chức năng giám sát của quốc hội được cụ thể thành các nhiệm vụ và quyền hạn. Quyền giám sát của quốc hội là quyền giám sát tối cao và quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Giám sát là công việc thường xuyên, liên tục trên nhiều phương diện với nhiều nội dung khác nhau. Nhưng quốc hội nước ta lại hoạt động theo kì họp và phần đa các đại biểu quốc hội là đại biểu chuyên trách. Chính vì vậy hoàt động giám sát của quốc hội không được thường xuyên liên tục, chưa có hiệu lực và hiệu quả cao, mang nặng tính hình thức. Khắc phục điều này, luật hoạt động giám sát của quốc hội quy định: “Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kì họp quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của ủy ban thường vụ quốc hội, hội đồng dân tộc, ủy ban của quốc hội, đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu quốc hội”.( Điều 1_Luật hoạt động giám sát của quốc hội ) Như vậy : Ngoài quốc hội còn có những cơ quan và người có thẩm quyền thực hiện quyền giám sát của quốc hội là: . Ủy ban thường vụ quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật của ủy ban thường vụ quốc hội được quy định tại điều 11,12,13( Luật tổ chức quốc hội) . Hội đồng dân tộc và các ủy ban của quốc hội: Thẩm quyền giám sát viêc tuân theo hiến pháp và pháp luật của hội đồng dân tộc vàcác ủy ban của quốc hội dược quy định từ điều 23 đến điều 29(Luật tổ chức quốc hội) . Đại biểu quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật của đại biểu quốc hội được quy định tại các điều39, điều42, điều45, điều46(Luật tổ chức quốc hội) Đối tượng và phạm vi chịu sự giám sát của quốc hội. Theo quy định của hiến pháp và pháp luật hiện hành, thì quốc hội, các cơ quan của quốc hội, đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu quốc hội co thẩm quyền giám sát đối với các tổ chức, cá nhân sau: . Quốc hội giám sát hoạt động của chủ tịch nước, ủy ban thường vụ quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, tòa an nhân dân tối cao,viện kiểm sát nhân dân tối cao(Điểm a, khoản 1, điều 3, luật hoạt động giám sát của quốc hội). Như vậy, đối tượng giám sát tối cao của quốc hội là tầng cao nhất của bộ máy nhà nước. Đó là các cơ quan và cá nhân do quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn. . Ủy ban thường vụ quốc hội giám sát hoạt động chính phủ, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viên kiểm sát nhân dân tối cao và hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giúp quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của quốc hội. . Hội đông dân tộc, ủy ban của quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động của chính phủ, thủ tướng chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành luật, nghị quyết của quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ quốc hội, giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực hội đồng dân tộc, ủy ban phụ trách giúp quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của các cơ quan này. . Đoàn đại biểu quốc hội tổ chức hoạt động giám sát của đoàn và tổ chức đẻ đại biểu quốc hội trong đoàn giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tham gia đoàn giám sát của ủy ban thường vụ quốc hội, hội động dân tộc, ủy ban của quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu. . Đại biểu quốc hội chất vấn chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao,trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. c . Nội dung giám sát của quốc hội. Theo hiến pháp, luật tổ chức quốc hội, luật hoạt động giám sát của quốc hội, nội dung hoạt động giám sát của quốc hội như sau: -Thứ nhất là giám sát văn bản.Giám sát văn bản hoạt động theo dõi, đánh giá , xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản của các đối tượng bị giám sát. Văn bản của các đối tượng bị giám sát là những văn bản lập quy triển khai thực hiện hiến pháp và các đạo luật, nghị quyết, pháp lệnh của các chủ thể giám sát. Nội dung giám sát văn bản nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống phạm luật, tính tối cao của hiến pháp. Cụ thể quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chủ tịch nước, ủy ban thường vụ quốc hội, chính phủ,thủ tướng chính phủ. -Thứ hai là giám sát hoạt động. Giám sát hoạt động dược hiểu là hoạt động theo dõi, xem xét đánh giá hoạt động thực tiễn của các đối tượng bị giám sát trong việc tổ chức thi hành hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội. Hoạt động giám sát này nhằm đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện các hoạt động thực tiễn của các đối tượng giám sata tuân thủ hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ quốc hội trong việc giải quyết các công việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình. Cụ thể “Quốc hội giám sát hoạt động của chủ tịch nước, ủy ban thường vụ quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ , bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội”. d . Các hình thức giám sát của quốc hội. Quốc hội chủ yếu thục hiền chức năng giám sát tối cao của mình thông qua các hình thức chủ yếu sau: d 1 . Thông qua các kì họp quốc hội. Trong các kì họp quốc hội đều thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước bằng các biện pháp sau : Xem xét các báo cáo công tác. Theo điều21 nội quy kì họp quốc hội (Thông qua ngày18/12/1992) thì những người đứng đầu các cơ quan nhà nước(Chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao) phải báo cáo về tình hình công tác của cơ quan hoặc nghành mình giữa 2 kì họp quốc hội. Nếu là kì họp cuối khóa, trong báo cao của mình thủ tướng chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao còn phải nêu được các vấn đề, nhiệm vụ đã thực hiện được và những vấn đề, nhiệm vụ chưa thực hiện được.Qua đó, chính phủ, tòa án nhân dân tối cao và viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định nguyên nhân, trách nhiệm và biên pháp khắc phục. Sau khi các cơ quan nhà nước nói trên đã báo cáo, ủy ban thường vụ quốc hội phát biểu ý kiến về các báo cáo đó, yêu cầu các cơ quan nói trên báo cáo bổ sung hoặc giải thích rõ những vấn đề mà ủy ban thường vụ quốc hội thấy cần thiết phải làm sáng tỏ để tìm ra nguyên nhân và quy trách nhiệm. Những nhận xét , yêu cầu này chính là bước thứ hai của quá trình giám sáttại kì họp đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. * Chất vấn của đại biểu quốc hội cũng là một biện pháp quan trọng để quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao tại kì họp. Qua các báo cáo thuyết trình của ủy ban thường vụ quốc hội tại kì họp cũng gợi mở, định hướng cho các đại biểu quốc hội bước vào những giai đoạn tiếp theo là thảo luận tại các tổ, các đoàn đại biểu,tại các hội đồng, các ủy ban của quốc hội. Tại các kì họp này, đại biểu quốc hội nêu lên những nhận xét, đánh giá về báo cáo công tác của chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời trao đổi về những vấn đề mà các báo cáo chưa nêu lên hoặc đã nêu lên nhưng chưa đầy đủ chính xác, cần phải báo cáo, bổ sung, giải thích. Sau các phiên họp ở đoàn, tổ đại biểu, các đại biểu bước vào giai đoạn vhất vấn tại phiên họp toàn thể của quốc hội. Đại biểu quốc hội có quyền chất vấn đối với chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng chính phủ và các thành viên khác của chính phủ và chánh án tòa án nhân dân tối cao, viêvj trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời tại kì họp những vấn đề mà đại biểu quốc hội chất vấn. Nếu đại biểu quốc hội không đồng ý với những nội dung trả lời thì có quyền đề nghị chủ tịch quốc hội đưa ra thảo luận tại phiên họp toàn thể, chủ tịch quốc hội có thể nêu những vấn đề chất vấn để quốc hội thảo luận và khi cần thiết quốc hội ra nghị quuyết về việc trả lơi chất vấn cũng như trách nhiệm của người bị chất vấn. Hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội làm tăng vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội đảm bảo tính thống nhất của luật pháp và vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện ý chí và nguyện vong của nhân dân. Nếu kì họp là hình thức hoạt động chủ yếu của quốc hội thì hoạt động giám sát của quốc hội dối với các cơ quan nhà nước cũng chủ yếu được thực hiện tại các kì họp quốc hội, Vì vậy, hiệu quả các kì họp quốc hội gắn liền với việc nâng cao hoạt động giám sát của quốc hội đối với các cơ quan nhà nước tại kì họp. d 2. Thông qua hoạt động của ủy ban thường vụ quốc hội. Ủy ban thường vụ quốc hội là ‘cơ quan thường trực quốc hội’, thay mặt quốc hội giám sát việc thi hành hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội đối với hoạt động của chính phủ, tòa án nhân dân tố cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương…giữa 2 kì họp Căn cứ vào chương trình giám sát đã được thông qua , ủy ban thường vụ quốc hội phân công thành viên của ủy ban chịu trách nhiệm về từng nội dung giám sát cũng như quyết định những vấn đề giao cho hội đồng dân tộc, các ủy ban quốc hội giám sát, ủy ban thường vụ quốc hội cũng quyết định tiến độ thực hiện chương trình giám sát và các biện pháp bảo đảm khác. Ủy ban thường vụ quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với chính phủ, toa án nhân dân tối cao, viện kiếm sát nhân dân tối cao băng các biện pháp chủ yếu là: Xem xét báo cáo của chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian quốc hội không họp. Khi cần thiết, ủy ban thường vụ quốc hội yêu cầu thành viên của chính phủ trực tiếp đến báo cáo hoặc cung cấp những tài liệu mà ủy ban thường vụ quốc hội thấy cần cho công tác giám sát của ủy ban. Cử các đoàn đi kiểm tra các vấn đề thuộc phạm vi giám sát của ủy ban thường vụ quốc hội. Trong quá trình giám sát nếu phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước tổ chưc và cá nhân, ủy ban thường vụ quốc hội, đoàn kiểm tra của ủy ban thường vụ quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan tổ chức và cá nhân có liên quan có trách nhiệm thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chống.Nếu phát hiện văn bản trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội thì ủy ban thường vụ quốc hội đình chỉ việc thi hành và trình quốc hội hủy bỏ các văn bản đó tại kì họp thứ nhất. Ủy ban thường vụ quốc hội còn thực hiện quyền giám sát thông qua việc xem xét đơn khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như tình hình tổ chức, hoạt động của hội đồng nhân dân. Ủy ban thường vụ quốc hội giám sát việc xem xét giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi quốc hội và ủy ban thường vụ quốc hội và yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình có trách nhiệm nghiên cưu thực hiện các kết luận hoặc yêu cầu của ủy ban thường vụ quốc hội về dân nguyện và báo cáo ủy ban thường vụ quốc hội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết luận hoặc yêu cầu. Ủy ban thường vụ quốc hội giám sát việc ra nghị quyết của hội đồng nhân dân, xem xét tình hình tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi cần thiết. Nếu nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với các văn bản của quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội thì ủy ban thường vụ quốc hội ra nghị quyết bãi bỏ nghị quyết sai trái đó.Nếu hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương làm thiệt hại nghiêm trọng đén quyền lợi của nhân dân thì ủy ban thường vụ quốc hội ra nghị quyết giải tán đối với hội đồng nhân dân đó. d 3. Thông qua hoạt động của hội đòng dân tộc và các ủy ban quốc hội. Với tính chất là cơ quan chuyên môn giúp việc cho quốc hội trong những lĩnh vực nhất định, hội đồng dân tộc, các ủy ban của quốc hội giám sát việc thực hiện hiến pháp, luật , nghị quyết của quốc hội về những vấn đề thuộc chuyên môn của mình. * Để đảm bảo tính chủ động và hiệu quả trong hoạt động giám sát ,hội đồng dân tộc và các ủy ban của quốc hội thường thông báo trước nội dung và kế hoach giám sát cho các cơ quan hữu quan cũng như chính quyền địa phương nơi hội đồng dân tộc hoặc ủy ban tiến hành giám sát. Để thực hiện những nội dung cần giám sát, hội đồng dân tộc và các ủy ban quốc hội yêu cầu cơ quan tổ chức và cá nhân được giám sát cung cấp tài liệu, báo cáo vấn đề thuộc nội dung giám sát và thu thập các tài liệu khác có liên quan. Khi cần thiết, hội đồng dân tộc và các ủy ban của quốc hội cử thành viên của mình tới các cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét vấn đề mà hội đồng dân tộc hoặc ủy ban quan tâm. Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, hội đồng dân tộc hoặc các ủy ban của quốc hội có quyền yêu cầu các tổ chức , cá nhân co vi phạm chấm dứt việc vi phạm đó đồng thời kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm giải quyết và báo cáo với ủy ban thường vụ quốc hội. Kết quả thẩm tra , giám sát của hội đồng dân tộc hoặc ủy ban quốc hội được trình bày trước quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội bằng hình thức thuyết trình, báo cáo hoặc ý kiến phát biểu; đồng thời được thông báo ccho các cơ quan hữu quan. * Hội đồng dân tộc và các ủy ban quốc hội còn thông qua hoạt động xem xét đơn thư khiếu nại tố cáo gửi đến để thực hiện quyền giám sát trên cơ sở nghiên cứu nội dung và đối tượng bị khiếu nại, tố cáo, hội đồng dân tộc và các ủy ban quốc hội yêu cầu các ủy ban có thẩm quyền giải quyết theo đơn thư khiếu nại, tố cáo đó thì hội đồng hoặc ủy ban kiến nghị biện pháp giải quyết với ủy ban thường vụ quốc hội. d 4. Thông qua hoạt động của đại biểu và đoàn đại biểu quốc hội. _Giữa 2 kì họp quốc hội, đại biểu quốc hội có quyền chất vấn chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng chính phủ,các thành viên chính phủ, chánh án tóa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chất vấn của đại biểu được gửi đến ủy ban thường vụ quốc hội và ủy ban thường vụ quốc hội gửi chất vấn đến người được chất vấn. Người được chất vấn có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu quốc hội bằng văn bản trong thời gian do ủy ban thường vụ quốc hội quy định đồng thời gửi văn bản tới ủy ban thường vụ quốc hội. Trong trường hợp chưa thõa mãn với nội dung trả lời chất vấn, đại biểu quốc hội có thẻ đề nghị ủy ban thường vụ quốc hội quyết định việc trả lưòi chất vấn trước ủy ban thường vụ quốc hội hoặc đưa ra thảo luận tại kì họp của quốc hội. Đại biểu chất vân và người được chất vấn được mời dự phiên họp ủy ban thường vụ quốc hội về việc này. Khi cần thiết, quốc hội hoặc ủy ban thường vụ quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn. _Đồng thời đại biểu quốc hội tiếp nhân khiếu nại, tố cáo của công dân và co trách nhiệm nghiên cứu chuyển đến các cơ quan hữu quan đồng thời theo dõi và đôn đốc việc giải quyết.Nếu việc giải quyết khiếu nại tố cáo đó không được thỏa đáng thì đại biểu quốc hội có quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan hữu quan hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đó xem xét lại. Nếu cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân không giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời thì đại biểu quốc hội có quyền yêu cầu ủy ban thường vụ quốc hội xem xét và gửi kết quả tới đại biểu quốc hội. _Trong hoạt động giám sát, nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền lợi hợp pháp của tổ chức xã hội hoặc của công dân thì đại biểu quốc hội có quyền trực tiếp yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan và người có trách nhiệm thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt những hanh vi trái pháp luật. Cơ quan, đơn vị, tổ chức hoặc người có trách nhiệm phải thông báo cho đại biểu quốc hội biết kết quả giải quyết e . Hậu quả pháp lý của giám sát của quốc hội. Quá trình thực hiện chức năng giám sát của quốc hội sẽ dẫn đếnmột số hậu quả pháp lý nhất định. Hậu quả pháp lý của giám sát tối cao của quốc hội khác hoàn toàn với hoạt động thanh tra, điều tra và kiểm sát. Đó là giám sát

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChức năng giám sát được xác định là chức năng không thể thiếu của quốc hội nhằm đảm bảo cho quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.doc
Tài liệu liên quan