Nhắc đến Thơ mới, ta không thể nào quên Xuân Diệu – nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông là nhà thơ với một quan niệm sống rất đặc biệt, và có lẽ là một quan niệm sống rất mới, đó là “Vội vàng”, vội vàng tận hưởng cuộc sống, muốn “cắn” vào “xuân hồng”, muốn tận hưởng cho trọn vẹn cái hương vị, âm thanh, màu sắc của đất trời. Sự táo bạo, mạnh mẽ ấy có lẽ đến từ văn hóa phương Tây. Thế nhưng, Xuân Diệu cũng là một hồn thơ rất Việt, mang đậm nét trầm mặc, nhẹ nhàng trong “Đây mùa thu tới”.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Có lẽ Xuân Diệu táo bạo giờ nhường chỗ cho một Xuân Diệu hoài cổ. Những hình ảnh trong thơ đẹp mà buồn phảng phất. Hình ảnh “liễu” là một hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thi ca xưa, kết hợp với tính từ “đìu hiu” càng tăng thêm nét buồn cho câu thơ. Bên cạnh đó, còn có hình ảnh “lệ ngàn hàng”, quả thật nhà thơ đã sử dụng rất nhiều thi liệu truyền thống. Chính điều đó đã mang lại phong cách đậm văn hóa phương Đông cho thơ. Thế nhưng, những vần thơ đầy tính nhạc ấy lại mang cả tính cổ điển và cả tính cách tân. Xuân Diệu như bừng tỉnh khi nhận ra thu đã về, như reo thầm trong tâm tưởng: “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Nàng thu của nhà thơ đã về với một màu sắc thật huyền diệu, quyến rũ lòng người, một sắc vàng phai thật nhẹ của lá. Sự biến chuyển tâm trạng đột ngột chỉ trong vòng bốn câu thơ cũng như cách sử dụng hình ảnh đầy độc đáo như là những cảm xúc rất mới của thi nhân, đồng thời là một cách tân táo bạo trong lối diễn đạt. Những vần thơ như một sự kết hợp nhuần nhuyễn của sự trang nhã, nhẹ nhàng của văn hóa phương đông và sự tươi mới của văn hóa phương Tây.
6 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3272 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chững minh nhận định của Đỗ Đức Hiểu: Thơ mới là bản hoà âm của hai nền văn hoá xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tên: PHAN DẠ BẢO CHÂU
Lớp: 11A4
Đề: Anh/ chị hãy làm sáng tỏ nhận định của Đỗ Đức Hiểu:
“ Thơ mới là bản hoà âm của hai nền văn hoá xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”.
Bài làm
Song hành cùng với sự phát triển của xã hội, văn học – nghệ thuật phát triển cũng là điều tất yếu. Từ xưa đến nay, dân tộc ta luôn tự hào về các giá trị văn hóa dân tộc cũng như biết rõ về sức sống mạnh mẽ của nó. Thơ văn Việt Nam cũng luôn không ngừng phát triển để có thể hòa hợp với cuộc sống con người. Trong giai đoạn giữa thế kỷ XX, ta không thể không nhắc đến Thơ mới – cuộc cách mạng thơ ca trong lịch sử văn học dân tộc. Thơ mới đã thổi bùng vào đời sống tinh thần của nhân dân ta một làn gió mới, bởi sức sống mạnh mẽ của nó, cũng là nhờ sự kết hợp tinh tế, hòa quyện của văn học dân tộc và các luồng văn hóa phương Tây. Như Đỗ Đức Hiểu đã nhận định: “ Thơ mới là bản hoà âm của hai nền văn hoá xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”.
Nói đến Thơ mới, ta đều biết rằng đó là một cuộc cách mạng thơ ca trong quá trình lịch sử dân tộc. Thơ mới giàu tinh thần dân tộc, nhưng lại mang một phong thái mới, tư tưởng mới của phương Tây. Các nhà thơ trong phong trào Thơ mới luôn muốn khẳng định mình, thể hiện cái tôi của mình. Các bài Thơ mới cũng phóng khoáng hơn về hình thức cũng như nội dung, thoát khỏi sự gò bó, tính quy phạm của thi ca Đường luật. Thế nhưng, “hồn Việt” vẫn còn sâu nặng, các nhà Thơ mới không thể thoát ly hoàn toàn khỏi những giá trị văn hóa phương Đông. Tuy có sự cách tân, tuy có sự giao lưu ảnh hưởng từ các khuynh hướng tượng trưng của thơ ca Pháp, nhưng Thơ mới vẫn giữ cho mình được nét riêng của văn hóa phương Đông, của thơ văn Việt Nam. Sự kết hợp Đông – Tây đã hòa quyện lại, tạo nên một nét rất riêng biệt, mang đậm tính đặc trưng của Thơ mới – đứa con đầy tự hào của văn học dân tộc.
Thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn của nước ngoài, đặc biệt là dòng thơ tượng trưng Pháp. Sự kết hợp của hai nền văn hóa Đông – Tây ấy có vẻ như là điều không thể, thế nhưng bằng sự tinh tế cũng như tinh thần dân tộc của các nhà thơ Việt Nam, Thơ mới đã ra đời và có một sức sống thật mạnh mẽ. Sự kết hợp văn hóa ấy hòa quỵên chặt chẽ vào nhau, tạo nên một “bản hòa âm”, một “bản giao hưởng” đầy lôi cuốn.
Ta không thể quên Tản Đà – hồn thơ tiếp nối giữa Thơ mới và thơ cũ. Ở Tản Đà, ta bắt gặp cái “ngông” đặc sắc của ông qua bài thơ “Muốn làm thằng Cuội”.
Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Với nhưng ước mơ tưởng chừng như rất cổ điển: được bay lên cung trăng, được thoát ly khỏi cảnh trần tục nhàm chán, được làm bạn với chị Hằng, vui đùa cùng mây gió. Có phải đó là những giấc mơ của các thi nhân xưa – muốn được lên tiên? Ước mơ ấy mang đậm nét cổ kính của văn hóa phương Đông, thế nhưng lại được thể hiện qua giọng thơ và phong cách thơ “ngông” của Tản Đà. Sự cách tân trong cách thể hiện, cách ngắt từ, ngữ trong câu thơ hoàn toàn tự do và phóng túng. Tản Đà gọi chị Hằng một cách thân mật, xưng em với chị Hằng như hai người đã thân nhau từ trước. Ông cũng tâm sự với chị Hằng bằng giọng điệu nhẹ nhàng mà hóm hỉnh “có bầu, có bạn can chi tủi; cùng gió, cùng mây thế mới vui”. Giọng điệu thơ ấy mang đậm chất của văn hóa phương Tây – sự tự do, phóng túng trong câu chữ. Có phải sự kết hợp Đông – Tây ấy đã mang đến cho ta “bản hòa âm” đặc sắc riêng biệt trong văn học dân tộc? Sự kết hợp rất riêng nhưng hòa hợp ấy có lẽ chỉ trong Thơ mới mới có được và Tản Đà xứng đáng là cây cầu “nối liền hai thời đại thi ca”.
Cũng là mơ ước được thoát ly, Thế Lữ đã mượn lời con hổ để thể hiện sự uất hận khi phải sống trong cảnh cầm tù ngột ngạt, mất tự do trong “Nhớ rừng”. Là một con hổ luôn “gặm một nỗi căm hờn trong cũi sắt”, luôn sống mãi trong “tình thương nỗi nhớ” về “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”. Với giọng thơ đầy hùng tráng và chất chứa nỗi niềm, Thế Lữ có lẽ đã thể hiện thật rõ nét tâm sự của người dân mất nước thuở ấy. Trong bài thơ, ta không thể nào quên được bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Những hình ảnh đầy màu sắc và ánh sáng cũng như mang đậm nét cổ điển phương Đông làm cho ta cảm thấy thật gần gũi. Đó là những đêm vàng ánh trăng, là những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, là bình minh cây xanh nắng gội, là những chiều lênh láng máu sau rừng, quả là những hình ảnh đầy cá tính và mạnh mẽ, vừa cổ điển lại vừa có chút mới mẻ của phương Tây. Có phải thơ Thế Lữ vẫn mang đậm cái hồn của dân tộc? Xuyên suốt bài thơ, mỗi câu thơ đều được thể hiện tự do không gò bó, thế nhưng vẫn không phai mờ bản sắc dân tộc, vẫn rất riêng, vẫn là thơ Việt. Mỗi dòng thơ như một lời tâm sự lắng sâu, đầy cảm xúc. Mang một chút gì đó của phương Tây, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đầy hình ảnh mà nhuốm màu tâm trạng, làm rung động biết bao trái tim con người, “Nhớ rừng” của Thế Lữ dường như rất mới, nhưng lại mang nét cổ kính của phương Đông, sự kết hợp ấy đã tạo nên một bản hùng ca thật tuỵêt diệu.
Nhắc đến Thơ mới, ta không thể nào quên Xuân Diệu – nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông là nhà thơ với một quan niệm sống rất đặc biệt, và có lẽ là một quan niệm sống rất mới, đó là “Vội vàng”, vội vàng tận hưởng cuộc sống, muốn “cắn” vào “xuân hồng”, muốn tận hưởng cho trọn vẹn cái hương vị, âm thanh, màu sắc của đất trời. Sự táo bạo, mạnh mẽ ấy có lẽ đến từ văn hóa phương Tây. Thế nhưng, Xuân Diệu cũng là một hồn thơ rất Việt, mang đậm nét trầm mặc, nhẹ nhàng trong “Đây mùa thu tới”.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Có lẽ Xuân Diệu táo bạo giờ nhường chỗ cho một Xuân Diệu hoài cổ. Những hình ảnh trong thơ đẹp mà buồn phảng phất. Hình ảnh “liễu” là một hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thi ca xưa, kết hợp với tính từ “đìu hiu” càng tăng thêm nét buồn cho câu thơ. Bên cạnh đó, còn có hình ảnh “lệ ngàn hàng”, quả thật nhà thơ đã sử dụng rất nhiều thi liệu truyền thống. Chính điều đó đã mang lại phong cách đậm văn hóa phương Đông cho thơ. Thế nhưng, những vần thơ đầy tính nhạc ấy lại mang cả tính cổ điển và cả tính cách tân. Xuân Diệu như bừng tỉnh khi nhận ra thu đã về, như reo thầm trong tâm tưởng: “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Nàng thu của nhà thơ đã về với một màu sắc thật huyền diệu, quyến rũ lòng người, một sắc vàng phai thật nhẹ của lá. Sự biến chuyển tâm trạng đột ngột chỉ trong vòng bốn câu thơ cũng như cách sử dụng hình ảnh đầy độc đáo như là những cảm xúc rất mới của thi nhân, đồng thời là một cách tân táo bạo trong lối diễn đạt. Những vần thơ như một sự kết hợp nhuần nhuyễn của sự trang nhã, nhẹ nhàng của văn hóa phương đông và sự tươi mới của văn hóa phương Tây.
Xuân Diệu có lẽ là một nhà thơ kết hợp rất tài tình giữa văn hóa Đông và Tây, bài thơ “Lời kỹ nữ” của ông cũng là một điển hình.
Em sợ lắm! Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Người giai nhân: Bến đợi dưới cây già,
Tình du khách: Thuyền qua không buộc chặt.
Hai câu thơ đầu là nỗi sợ của người kỹ nữ, được thể hiện bằng một giọng thơ đầy phóng túng, tự do nhưng lại chất chứa tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng. Từng dòng thơ như những lời tâm sự sâu từ tận đáy lòng, cũng là những hình ảnh đầy tính táo bạo mà mạnh mẽ, tính chất “hướng ngoại” trong câu thơ điệu nói của lời thơ là rất đậm nét. Đến hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ lại chuyển sang một phong thái mới – một sự lắng đọng sâu sắc, mang đậm nét văn hóa phương Đông. Với hình ảnh ngừơi giai nhân được so sánh như “bến đợi dưới cây già”, và hình ảnh người du khách như “thuyền qua không buộc chặt”, ta nghĩ đến những hình ảnh rất quen thuộc của thi ca Việt Nam. Một sự kết hợp tưởng chừng như bất ngờ, gượng ép, thế nhưng cái phóng khoáng, tác động trực tiếp vào suy nghĩ của người đọc và cái lắng sâu nhẹ nháng của những hình ảnh xưa cũ “cây”, “bến”, “thuyền” lại hòa vào nhau thật chặt chẽ. Có lẽ ta không thể phủ nhận được cái tài tình của Xuân Diệu trong cách phối hợp “hai nền văn hóa xa nhau vời vợi” ấy.
Nỗi nhớ quê nhà cũng là một đề tài đầy thi vị của các nhà thơ mới và Huy Cận cũng là một trong số đó. Trong “Tràng giang”,Huy Cận đã khéo léo vẽ nên nét đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại cho bầu trời trên cao.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ : “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại: Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước. Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa, Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay. Những câu thơ da diết ấy vừa mang vẻ đẹp cổ kính mà hiện đại. Huy Cận đã khéo léo vận dụng lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, với những thi liệu cổ điển quen thuộc kết hợp vẻ đẹp hiện đại lan tỏa qua sự sáng tạo độc đáo đầy mới mẽ qua từng câu chữ. Đó là một phong cách rất riêng của Huy Cận, trong từng câu thơ đều thấm đẫm sự trang nhã cổ điển, vừa có sự cách tân hiện đại, luôn nặng tình với quê hương, đất nước.
Cũng là ảnh hưởng của thi liệu cổ điển, Thâm Tâm với “Tống biệt hành” đã cho ta cảm hứng sâu lắng về cuộc chia ly của người con với quê hương, gia đình.
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Có lẽ hình ảnh những cuộc chia ly bên bến sông của thi ca cổ đã ngấm sâu vào tác giả, nên cho dù “không đưa qua sông” thì tiếng sóng vẫn như tồn tại rất rõ trong tâm trí tác giả. Tiếng sóng ấy tưởng như rất rõ ở trong lòng của Thâm Tâm, nỗi buồn chia phôi như đang hòa vào tiếng sóng. Bên cạnh đó, hình ảnh “bóng chiều” cũng là một trong những hình ảnh quen thuộc của thi ca xưa, đó là màu của hoàng hôn, mang đậm nét cổ điển đượm buồn. Sử dụng phép giản lược của thi ca cổ, tác giả đã làm cho câu hỏi tu từ “sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” mang tính đa nghĩa, là nỗi buồn, nỗi lo, và cũng là sự giằng xé nội tâm, kìm nén bao cảm xúc tương phản. Đó là cách kết hợp cú pháp Đường thi vào thơ mới khá lạ lẫm, mang đến bao cảm xúc sâu lắng mà mới mẻ nhưng lại rất thành công. Những vần thơ của Thâm Tâm dường như mang đậm nét trầm mặc cổ kính, nhưng lại luôn có chút gì đó phá cách trong lối diễn đạt, làm cho những ngôn ngữ Đường thi như đa âm sắc hơn, mới mẻ hơn. Quả thật những câu thơ trong “Tống biệt hành” là một sự kết hợp tài tình và hoàn hảo giữa những cách tân hiện đại và sự sâu lắng của thi liệu cổ điển.
Bên cạnh kết hợp giữa thi ca Pháp, Thơ mới cũng mang một âm sắc rất Việt Nam, mang “cá tính Việt” đặc sắc. Ta không thể quên Nguyễn Bính với những vần thơ chân chất, mộc mạc qua bài thơ “Tương tư”.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người. Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Bằng thể thơ lục bát quen thuộc của dân tộc, “Tương tư” đã mang đến ta cảm thấy một sự gần gũi, thân quen. Những hình ảnh trong văn học dân gian đã được lồng ghép nhẹ nhàng vào những lời thơ thật mới. “Thôn Đoài” nhớ “thôn Đông” và “chín nhớ mười mong” là những âm sắc rất quen thuộc trong ca dao dân ca Việt. Nguyễn Bính đã thổi vào thơ cái thân thương của văn học dân tộc, kết hợp với sự cách tân táo bạo, mới mẻ đầy ngẫu hứng trong từng lời thơ khi nói “ gió mưa là bệnh của giời”, khi ông khẳng định “tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Chính sự phối hợp đầy bất ngờ, mới lạ ấy lại rất tự nhiên và nhẹ nhàng đã chứng tỏ cái hồn quê đầy bình dị của một nhà thơ mới. Dường như tâm tình của ông đã khơi dậy biết bao cảm xúc, đánh thức cái hồn quê của người Việt qua sự kết hợp tài tình và thành công của thi ca dân gian và sự sáng tạo đầy ngẫu hứng. Nguyễn Bính xứng đáng là “thi sĩ của làng quê”, những vần thơ của ông như một khúc ca làm ta thấm thía cái quê, cái mộc mạc nhưng không kém phần duyên dáng đáng yêu của làng quên Việt Nam.
Gửi tình, gửi hồn vào thi ca, các nhà thơ mới đã thổi bùng nên sức sống cho nền văn học Việt Nam, tạo nên một làn gió mới lạ nhưng gần gũi cho tâm hồn dân tộc. Mỗi nhà thơ là một cái “tôi” riêng, một phong cách riêng, nhưng điểm chung của họ là luôn nặng tình với đất nước, quê hương. Họ mang cái mới đến thơ ca, nhưng cũng không quên giữ lại những bản sắc đặc trưng quý giá của văn học dân tộc. Các nhà thơ mới đưa vào thi ca cái mới của văn học phương Tây, giữ lại những điều đáng quý của thi ca Đường luật, tiếp nối mạch nguồn văn học dân tộc. Tuy là những nền “văn hóa xa nhau vời vợi”, nhưng Thơ mới lại là một sự kết hợp hoàn hảo, hài hòa, là “bản hòa âm” quyến rũ đầy nhạc điệu, là “bản giao hưởng” mang cả vẻ đẹp “cổ và hiện đại”. Quả thật, Thơ mới là một thành tựu đáng quý, là một giai đoạn rực rỡ trong nền văn học nước nhà, và thơ mới hoàn toàn xứng đáng với lời nhận xét đầy ưu ái của Đỗ Đức Hiểu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chững minh nhận định của Đỗ Đức Hiểu về Thơ mới.doc