Lần phân công lao động xã hội lớn đầu tiên: Đó là trong lao động con người được phát triển, hoạt động của con người ngày càng phong phú, chủ động và tự giác hơn. Việc con người thuần dưỡng được động vật đã mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của xã hội loài người, nghề chăn nuôi phát triển rất mạnh mẽ cùng với nghành trồng trọt. Của cải dư thừa con người đã tạo ra nhiều của cải hơn mức cần thiết để duy trì cuộc sống của chính bản thân họ.
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4539 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chứng minh nhận định: Nhà nước ra đời thay thế cho tổ chức thị tộc bộ lạc là một tất yếu khách quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu hỏi :01 Chứng minh nhận định sau “ Nhà nước ra đời thay thế cho tổ chức thị tộc bộ lạc là một tất yếu khách quan”.
Bài làm:
ĐẶT VẤN ĐỀ.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Xã hội nguyên thuỷ mà đỉnh cao là chế độ thị tộc bộ lạc xã hội đầu tiên đưa con người bước vào cuộc sống sinh tồn và chống trọi với thiên nhiên. Như một quy luật tất yếu chế độ thị tộc bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã nhường chỗ cho nhà nước ra đời chính vì thế đã có nhận định cho rằng : “ nhà nước ra đời thay thế cho tổ chức thị tộc bộ lạc là một tất yếu khách quan.”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Nguồn gốc ra đời của nhà nước.
Nguồn gốc nhà nước là một trong những vấn đề quan trọng nhưng cũng rất phức tạp được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.Cho đến hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc ra đời của nhà nước trong đó có rất nhiều học thuyết như thuyết thần học, thuyết gia trưởng, thuyết sinh học, thuyết khế ước thuyết bạo lực. Tuy nhiên trong phạm vi bài tập này em xin được trình bày nguồn gốc sự ra đời của nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin. Theo học thuyết Mac – Lenin có nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến sự ra đời của nhà nước trong đó quan trọng nhất là nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân xã hội.
Nguyên nhân kinh tế.
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất: công cụ lao động đã được cải tiến, con người được phát triển cả về thể lực và trí lực, ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về thế giới và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong lao động năng suất lao động tăng cao đã tạo ra tiền đề làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy và đòi hỏi sự phân công lao động tự nhiên phải được thay thế bằng sự phân công lao động xã hội. Lịch sử đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn mà mỗi lần lại có những bước tiến mới làm sâu sắc thêm quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy.
Lần phân công lao động xã hội lớn đầu tiên: Đó là trong lao động con người được phát triển, hoạt động của con người ngày càng phong phú, chủ động và tự giác hơn. Việc con người thuần dưỡng được động vật đã mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của xã hội loài người, nghề chăn nuôi phát triển rất mạnh mẽ cùng với nghành trồng trọt. Của cải dư thừa con người đã tạo ra nhiều của cải hơn mức cần thiết để duy trì cuộc sống của chính bản thân họ.
Chính những đàn gia súc được thuần dưỡng đã trở thành nguồn tích lũy tài sản quan trọng, là mầm mống sinh ra chế độ tư hữu, xã hội đã phân chia thành kẻ giàu, người nghèo. Chế độ tư hữu xuất hiện đã làm thay đổi quan hệ hôn nhân, chế độ hôn nhân một chồng đã thay thế cho chế độ quần hôn. Đồng thời với sự thay đổi đó đã xuất hiện chế độ gia trưởng đặc trưng bằng vai trò tuyệt đối và quyền lực vô hạn của người chồng trong gia đình, “ gia đình cá thể đã trở thành một lực lượng đang đe dọa thị tộc” xã hội tiếp tục phát triển với những bước tiến mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của chăn nuôi và trồng trọt thì thủ công nghiệp cũng phát triển. Việc con người tìm ra kim loại, đặc biệt là sắt đã tạo ra khả năng có thể trồng trọt trên những diện tích rộng lớn. Sắt mang lại cho những người thợ thủ công nghiệp những công cụ lao động có giá trị. Nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim loại và những nghề thủ công khác ngày càng được chuyên môn hóa đã làm cho sản phẩm được làm ra ngày càng nhiều loại và hoàn hảo hơn.
Lần phân công lao động thứ hai là : thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sự tăng trưởng không ngừng của sản phẩm lao động đã nâng cao giá trị sức lao động của con người. Sau lần phân công lao động xã hội đầu tiên, nô lệ đã ra đời nhưng còn có tính chất lẻ tẻ thì nay trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội; nô lệ không còn là kẻ phụ giúp nữa mà trở thành một lực lượng xã hội với số lượng ngày càng tăng “ họ đã bị đẩy đi làm việc ở ngoài đồng ruộng và trong xưởng thợ, thành từng đoàn mười, mười hai người một”.
Sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai đã đẩy nhanh quá trình phân hóa xã hội làm cho sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo, giứa chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc, mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng. Nền sản xuất đã tách ra thành các ngành sản xuất riêng. Làm xuất hiện nhu cầu trao đổi và sản xuất hàng hóa ra đời.
Lần phân công lao động xã hội thứ ba : do nền sản xuất hàng hóa xuất hiện thì đồng thời thương nghiệp cũng phát triển. Lần phân công lao động thứ ba này giữ vai trò rất quan trọng và có một ý nghĩa quyết định. Sự phân công này làm nảy sinh ra một giai cấp không còn tham gia vào sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, đó là giai cấp thương nhân. Nếu như ở hai lần phân công lao động xã hội trước. Những nguyên nhân của sự hình thành giai cấp đều chỉ găn liền với sản xuất mà thôi, thì ở lần phân công lao động thứ ba này đã xuất hiện “ một giai cấp mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến”. Sự ra đời và bành chướng của thương mại đã kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền, hàng hóa của hàng hóa, nạn cho vay nặng lãi, quyền tư hữu về ruộng đất và chế độ cầm cố. Tất cả những yếu tố đó, làm cho sự tích tụ tập trung của cải vào trong tay của một số ít người giàu có diễn ra nhanh chóng, đồng thời thúc đẩy sự bần cùng hóa của quần chúng và sự tăng nhanh của đám đông dân nghèo. Số nô lệ tăng nhanh cùng với sự cưỡng bức ngày càng nặng nề của giai cấp chủ nô đối vơi họ.
Những yếu tố mới xuất hiện đã làm đảo lộn đời sống thị tộc. Những hoạt động thương nghiệp, sự thay đổi nghề nghiệp, chuyển nhượng quyền sở hữu đất đai đã phá vỡ cuộc sống định cư của thị tộc. Làm mất đi điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của chế độ thị tộc. Như vậy sau ba lần phân công lao động xã hội biến đổi quan trọng và ý nghĩa nhất là sự xuất hiện tư hữu, quá trình này đã phá vỡ nguyên tắc cùng làm cùng hưởng – nguyên tắc vàng của xã hội thị tộc.
Nguyên nhân xã hội.
Chính sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế mà cụ thể qua ba lần phân công lao động xã hội đã làm xã hội thị tộc biến đổi sâu sắc. Sự xuất hiện của chế độ tư hữu đã làm xuất hiện sự phân chia giai cấp, chính sự phân hóa, sự chênh lệch về khoảng cách lợi ích của các giai cấp không giống nhau đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các giai cấp về quyền lợi đó là mâu thuẫn giữa những người giàu và người nghèo, giữa chủ nợ và con nợ ngày càng trở nên gay gắt trong mỗi thị tộc. Đó là sự tập trung một phần lớn tài sản vào tay các gia đình tù trưởng, thủ lĩnh bộ lạc, thủ lĩnh quân sự của thị tộc và bộ lạc, đặc biệt là sự tích tụ và sự tập trung của cải vào tay của một số ít người giàu có chính vì vậy đã thúc đẩy sự bần cùng hóa của quần chúng đặc biệt là nông dân nghèo, cùng với đó nô lệ ngày càng bị cưỡng bức và bóc lột nặng nề. Những người giàu có chiếm giữ nhiều tài sản trở thành những người có quyền năng đặc biệt khiến người khác phải phụ thuộc, phục tùng họ. Họ trở thành giai cấp thống trị. Còn ngược lại là những người không có tài sản hoặc ít tài sản sẽ trở thành giai cấp bị trị. Như vậy hai giai cấp này luôn đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình tổ chức thị tộc trở thành bất lực, không thể phù hợp được nữa.
Không chỉ có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp. Cơ cấu xã hội cũng có những biến đổi mạnh mẽ. Những cộng đồng thị tộc vốn là những tổ chức khép kín và có đặc quyền không thể đứng vững được. vì bên cạnh những nhu cầu và những lợi ích mà thị tộc phải bảo vệ và có tư cách để bảo vệ, đã xuất hiện những nhu cầu mới, những lợi ích của những tầng lớp người khác nhau, không những xa lạ với chế độ thị tộc mà còn đối lập đối với chế độ đó về mọi phương diện. Chính những lợi ích đó đã đòi hỏi phải có những cơ quan mới hình thành ở bên cạnh, ở bên ngoài tổ chức thị tộc, và do đó đã đối lập với tổ chức thị tộc.
Xã hội thị tộc lúc đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp. Hoặc là để cuộc đấu tranh diễn ra trong khuôn khổ trật tự nhất định.
Ngoài sự phát triển về kinh tế, sự mâu thuẫn giai cấp, phân hóa xã hội đã làm cho tổ chức thị tộc tan rã. Nhường chỗ cho một tổ chức mới tổ chức đó là nhà nước.
Có thể nhận thấy rằng nguyên nhân làm cho xã hội thị tộc tan rã cũng chính là nguyên nhân ra đời của nhà nước.
Xã hội phát triển ngày càng đi lên xã hội thị tộc không còn đáp ứng được những nhu cầu của con người. Chính thực tiễn chính lịch sử sẽ tự đào thải và tự lựa chọn sự tồn tại và phát triển của mình. Sự tan rã của xã hội thị tộc và sự ra đời của nhà nước như là một tất yếu khách quan, một quy luật của lịch sử đó là sự thay thế của các hình thái xã hội và nhà nước.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Như vậy với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế sự biến đổi của xã hội. Tổ chức thị tộc bộ lạc tan rã nhường chỗ cho nhà nước – sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước sẽ làm dịu bớt sự xung đột trong xã hội và giữ sự xung đột đó trong vong trật tự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND 2010.
Mác – Ăngnghen tuyển tập, Tập 6 Nxb Sự Thật H 1984.
Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu và nhà nước. Ăngghen.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn lý luận nhà nước- Tính tất yếu khách quan của việc nhà nước ra đời thay thế cho tổ chức thị tộc.doc