Tiểu luận Chứng minh sự lành đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể từ khi đảng ra đời cho đến nay

Tháng 9 năm 1960, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp xác định đường lối cho cách mạng hai miền Nam Bắc. Đại hội xác định cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược được tiến hành đồng thời: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó đều có vị trí quan trọng của nó, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể ở mỗi miền trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt. Song hai nhiệm vụ đó đều có mục tiêu chung trước mắt là giành độc lập thống nhất tổ quốc. Hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ mật thiết và thúc đẩy lẫn nhau.

Miền Bắc quá độ tiến lên XHCN nhằm củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thốn nhất nước nhà. “Tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”.

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4216 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chứng minh sự lành đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể từ khi đảng ra đời cho đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hậu phương hùng hậu, tạo ra cơ hội chưa từng có cho cách mạng Việt Nam. Song nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới vẫn tồn tại. Toàn thế giới đứng trước sự đe doạ nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Trước tình hình này, Đảng và nhân dân ta đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa hòa bình và cách mạng, để tiến hành thắng lợi cách mạng giải phóng miền Nam. Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc đang lâm vào thế bị động, nhiều nước TBCN đang gặp nhiều khó khăn nhưng đế quốc Mỹ thì giàu mạnh lên sau chiến tranh thế giới thứ hai, âm mưu thực hiện quyền bá chủ thế giới. Mỹ lôi kéo đồng minh của mình tiến hành chống phá phong trào cách mạng thế giới. Trong báo cáo chính trị tại hội nghị lần 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (7-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra một phương hướng chiến lược được thực tiễn lịch sử chứng minh là vô cùng sáng suốt: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giơi và đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”. Người còn phân tích, dự đoán tình hình chính xác và nêu định hướng chiến lược cho cách mạng nước ta: “Sau chiến dịch Điện biên Phủ, âm mưu và kế hoạch của Mỹ cũng thay đổi để kéo dài chiến tranh Đông Dương, quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương, phá hoại Hội nghị Giơnơve, tìm cách hất cẳng pháp để chiếm ba nước Việt, Miên, lào, biến nhân dân Việt, Miên, Lào thành nô lệ của Mỹ và gây thêm tình hình căng thẳng trên thế giới. Cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ. Bất kỳ người nào, nước nào không thân Mỹ đều có thể làm Mặt trận thống nhất (dù là tạm thời với ta). Đế quốc Mỹ cố tình phá hoại hóa bình, khả năng tiếp tục chiến tranh chưa hết, nhưng khả năng ký hiệp định Giơnơve đang trở thành hiện thực. Tại hội nghị này, Pháp đã chịu cam kết định kỳ rút quân khỏi ba nước Đông Dương”. Đồng thời Người còn nhận định: “Hiện nay tình hình đã đổi mới, nhiệm vụ ta do đó cũng thay đổi cho phù hợp với tình hình mới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý chiến sĩ, đồng bào cả nước: “Tranh lấy hòa bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ phức tạp…”. Người nêu ra 3 nhiệm vụ, 10 công tác trước mắt: - Tranh thủ và củng cố hòa bình, hoàn thành thống nhất, độc lập, dân chủ trong toàn quốc. 2 - Tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây dựng một quân đội nhân dân mạnh mẽ và thích hợp với yêu cầu của tình thế mới. 3 - Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng, ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều kiện kiến thiết nước nhà. Cũng tại Hội nghị này, đồng chí Trường Chinh phân tích rõ hơn nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang: “…một ngày nào mà quân đội ngoại quốc chưa rút hết khỏi Đông Dương thì hòa bình chưa củng cố. Hơn nữa, dù quân đội ngoại quốc rút khỏi Đông Dương mà trên thế giới vẫn còn bọn đế quốcthì hòa bình của nhân dân Đông Dương cũng chưa được bảo đảm. Vì vậy, phải luôn tăng cường lực lượng, củng cố quốc phòng, ngăn ngừa bọn can thiệp Mỹ và hiếu chiến Pháp dùng bọn tay sai của chúng mà phá hoại hiệp định đình chiến hoặc trực tiếp khiêu khích, xâm lược”. Hội nghị lần 6 BCHTƯ Đảng lao động Việt Nam đã thảo luận và hoàn toàn nhất trí với chủ trương nói trên: “Ngày nay do tình hình và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt. Đây là một sự thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng, nhưng mục đích của cách mạng vẫn là một”. Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cán bộ, đồng bào và chiến sĩ cả nước: “…Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. “Đồng bào miền Nam kháng chiến trướchết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc rằng đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước lên trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài lên trên lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Đảng, chính phủ và tôi luôn luôn theo dõi sự cố gắng của đồng bào và tin chắc đồng bào sẽ thắng lợi”. Ngày 5-9-1954, Bộ chính trị ra nghị quyết cụ thể hóa và bổ sung Nghị quyết hội nghị lần 6. Nghị quyết vạch ra 5 đặc điểm của giai đoạn mới, trong đó quan trọng nhất là “Nam Bắc tạm thời phân làm hai vùng”. Nghị quyết nhận định đế quốc Mỹ và tay sai đang mưu tính phá hoại hiệp nghị Giơnevơ, nhằm “biến Việt Nam thành Triều Tiên thứ hai”. Cách mạng Việt Nam chuyển hướng từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Do đó phương pháp hoạt động ở vùng địch tạm chiếm đóng là kết hợp chặt chẽ công tác hợp pháp và công tác không hợp pháp; trong đó lấy công tác không hợp pháp làm chính; đồng thời hết sức lợi dụng mọi khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp mà tuyên truyền giáo dục quần chúng đông đảo, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Cần mở rộng công tác ở thành thị. Phải làm cho cán bộ hiểu đúng mức những khó khăn ở vùng địch tạm chiếm đóng, đồng thời cũng nhận rõ những khả năng, thuận lợi mới. Thực hiện nghị quyết, các Đảng bộ đã chỉ đạo việc chuyển hướng, ổn định tổ chức, chôn giấu vũ khí, rút vào bí mật để ổn định lực lượng. Dựa trên tinh thần nghị quyết này, Bộ chính trị ra chỉ thị “về tình hình mới và nhiệm vụ công tác mới của miền Nam”, nêu rõ những điều kiện thuận lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, đồng thời dự kiến khả năng không thuận lợi cho cách mạng miền Nam là Mỹ và tay sai sẽ phá hoại cuộc tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Chỉ thị vạch rõ 3 nhiệm vụ cụ thể trước mắt của cách mạng miền Nam: Một là, đấu tranh đòi đối phương thi hành đúng hiệp định đình chiến. Hai là, chuyển hướng công tác cho thích hợp với điều kiện mới, nắm vững phương châm chính sách mới, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, vừa che dấu lực lượng, vừa lợi dụng các khả năng công khai hợp pháp đấu tranh với địch. Ba là, tập trung mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, đấu tranh đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm thân Mỹ, lập ra một chính quyền tán thành hòa bình, thống nhất, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh. Đến cuối năm 1954, ở miền Nam về cơ bản đã sắp xếp xong tổ chức lãnh đạo từ Xứ ủy đến cơ sở. Chi bộ được phân nhỏ để bám sát quần chúng và tránh địch khủng bố. Các tổ chức Đảng với gần 60.000 Đảng viên rút vào hoạt động bí mật. Tháng 3-1955 và tháng 8-1955, BCHTƯ Đảng họp Hội nghị lần thứ 7 và thứ 8 nhận định, ở miền Nam thực dân Pháp đã bị đế quốc Mỹ hất cẳng, Mỹ và tay sai công khai chống lại hiệp nghị Giơnevơ. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ thì “điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân…”. “Bất kể tình huống nào miền Bắc cũng phải được củng cố”. Hội nghị đề ra đường lối củng cố miền Bắc là: “Củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước lên XHCN”. Hội nghị nêu ra cương lĩnh của Mặt trận dân tộc thống nhất mới, chủ trương thống nhhất từng bước nhằm tập hợp lực lượng toàn dân chống đế quốc Mỹ và tay sai. Hội nghị Bộ chính trị tháng 6-1956 nhận định: khả năng giằng co, kéo dài, tình trạng chia cắt đang tồn tại ở miền Nam; hình thức đấu tranh trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang. Nói như vậy không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của giáo phái chống Diệm, cần củng cố các lực lượng vũ trang và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Nghị quyết hội nghị đã khẳng định một hướng mới: Đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ. Nghị quyết đã xác nhận, từ khi Diệm tấn công vào các giáo phái ta lợi dụng giáo phái để tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng, bảo vệ cơ sở và các căn cứ cách mạng, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo. Đây là một bổ sung quan trọng về đường lối. Nhưng thực tiễn không dừng lại ở đó, Mỹ-Diệm đưa “lưỡi lê vào chương trình nghị sự” đàn áp một cách dã man phong trào cách mạng của ta. Tình hình này đòi hỏi Đảng phải tìm ra giải pháp ngăn chặn bàn tay khát máu của chúng. Đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó, đồng chí Lê Duẫn đã dự thảo bản Đề cương cách mạng miền Nam, trong đó phân tích tình hình chính trị, xã hội miền Nam, vạch rõ xu thế phát triển tất yếu của xã hội đó và nêu lên phương hướng của cách mạng miền Nam là dùng bạo lực cách mạng đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm. Đề cương khẳng định: “Để chống lại Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình, đó là con đường cách mạng… ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác”. Đề cương nêu ra phương hướng: “dựa vào lực lượng cách mạng chính trị của quần chúng làm căn bản” để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm. Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 của trung ương (5-1959) khẳng định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân… Con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. Nghị quyết 15 đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, dẫn tới cuộc đồng khởi oanh liệt năm 1960, làm xoay chuyển tình thế ở miền Nam. Phong trào Đồng Khởi đánh dấu bước nhảy vọt quan trọng, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Thực tiễn những năm 1954-1960 và những năm sau đó của cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra cơ bản đúng dự kiến của trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong thời kỳ này ta có sai lầm trong chỉ đạo chiến lược, chậm chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh, chỉ nhấn mạnh đấu tranh chính trị trong khi địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ, nhân dân. 2. Giai đoạn 1961-1965 : Tháng 9 năm 1960, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp xác định đường lối cho cách mạng hai miền Nam Bắc. Đại hội xác định cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược được tiến hành đồng thời: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó đều có vị trí quan trọng của nó, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể ở mỗi miền trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt. Song hai nhiệm vụ đó đều có mục tiêu chung trước mắt là giành độc lập thống nhất tổ quốc. Hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ mật thiết và thúc đẩy lẫn nhau. Miền Bắc quá độ tiến lên XHCN nhằm củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thốn nhất nước nhà. “Tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh…”. Sau Đại hội III của Đảng (1950) cách mạng miền Nam có bước tiến mới. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập (20-12-1960) bao gồm nhiều thành phần, Đảng phái chính trị tham gia, hình thành trên thực tế một tổ chức giải phóng đối lập với chính quyền Ngô Đình Diệm. Lực lượng vũ trang nhân dân ra đời từ lực lượng chính trị tại chỗ và được sự chi viện mọi mặt của miền Bắc, hậu phương lớn. Đảng bộ miền Nam được tổ chức vững mạnh, nhất là sau khi trung ương cục miền Nam được thành lập theo quyết định của bộ chính trị tháng 1-1961. Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” hy vọng đè bẹp lực lượng cách mạng, bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Tháng 1-1961, Bộ chính trị đề ra chủ trương tiếp tục giữ vững thế tiến công, phát triển lực lượng vũ trang và đưa đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch trên ba vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và nông thôn rừng núi; đánh địch bằng ba mũi giáp công: chính trị, quân sự và binh vận. Bộ chính trị khẳng định khởi nghĩa của quần chúng kết hợp với chiến tranh cách mạng trở thành quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Con đường giành chính quyền của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng bạo lực được thực hiện dưới hình thức tổng công kích kết hợp với tổng khởi nghĩa. Thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị, cách mạng miền Nam đã giành được nhiều thắng lợi lớn, phá tan chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, buộc Mỹ phải “thay ngựa giữa dòng” bằng cuộc đảo chính quân sự lật đổ Diệm (11-1963). Trước thắng lợi dồn dập và tình hình phát triển có lợi cho cách mạng, tháng 10-1963 hội nghị Bộ chính trị và hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 9 (khóa III tháng 12-1963) đã họp, đánh giá tình hình và vạch ra chủ trương, biện pháp tích cực để vươn lên giành thắng lợi trong “chiến tranh đặc biệt”. Mặc khác, Trung ương Đảng dự định khả năng Mỹ sẽ đưa quân vào miền Nam hòng cứu vãn tình thế, cuộc chiến tranh của nhân dân miền Nam vì thế sẽ lâu dài, gian khổ hơn nhưng nhất định giành thắng lợi cuối cùng. Hiện tại chúng ta chủ trương kiên trì đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân theo hướng: giành thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước; kiềm chế việc Mỹ tăng quân vào miền Nam; tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa để đi đến toàn thắng… Ra sức xây dựng thực lực chính trị và vũ trang, nhất là vũ trang, làm thay đổi mau chóng so sánh lực lượng theo chiều hướng có lợi cho ta; tích cực xây dựng và mở rộng căn cứ, đặc biệt là những địa bàn chiến lược và chủ động của quân chủ lực; đánh tiêu diệt và làm tan rã từng bộ phận quân địch; phá phần lớn ấp chiến lược làm chủ vùng rừng núi và phần lớn nông thôn đồng bằng, tạo điều kiện cho phong trào quần chúng ở đô thị nổi dậy mạnh mẽ, làm cho địch khủng hoảng sâu sắc, giành được chủ động về chiến lược, tạo thời cơ tốt giành thắng lợi quyết định”. 3. Giai đoạn 1965-1968 : Đế quốc Mỹ đã ồ ạt đổ quân viễn chinh vào miền Nam với qui mô ngày càng lớn, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” để cứu nguy cho Ngụy quân, Ngụy quyền Sài Gòn đang trên đà sụp đổ. Chúng tăng cường ném bom, bắn phá miền Bắc, cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, buộc ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện của chúng. Hành động leo thang xâm lược của đế quốc Mỹ đã đặt nhân dân trong cả nước trước một thử thách nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, Đảng cần phải quyết đoán nhanh chóng và chính xác. Trong năm 1965, Trung ương Đảng đã họp hội nghị trung ương XI (3-1965) và hội nghị trung ương XII (12-1965) nhằm xác định quyết tâm và đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trên cơ sở phân tích khoa học các yếu tố về thế và lực của hai bên, Đảng nhận định so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn dù Mỹ đã đưa vào miền Nam hàng chục nghìn lính viễn chinh. Từ đó Trung ương Đảng xác định: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, quyết tâm giữ vững và phát triển thế tấn công, kiên quyết tấn công và tấn công lên tục. Phương châm chiến lược chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần phải cố gắng tập trung lực lượng cách mạng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyêt định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Phương pháp đấu tranh vẫn là tiếp tục thực hiện kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, đánh địch bằng ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược; tích cực tiêu diệt sinh lực địch để giành quyền làm chủ và làm chủ để tiêu diệt sinh lực địch… Đối với miền Bắc, đảng chủ trương tiếp tục củng cố xã hội XHCN, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, thực hiện tốt nhiệm vụ chi viện cho miền Nam đồng thời sẵn sàng đánh bại kẻ địch nếu chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Thực hiện sáng tạo chủ trương, đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng, quân và dân miền Nam, được sự chi viện đắc lực của miền Bắc, đã liên tiếp đánh thắng hai cuộc phản công mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch. Tháng 12-1967, Bộ chính trị chủ trương chuyển cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến lên giành thắng lợi bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giáng đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đảng ta đã đi tới quyết định hướng sức mạnh chủ yếu của chiến tranh cách mạng vào các đô thị miền Nam, xem đó là mũi thọc sâu vào yết hầu, vào tim óc của địch-nơi tập trung sinh lực cao cấp và cũng là những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam. Khi quyết định chuyển hướng tấn công vào đô thị dịp tết Mậu thân, chủ trương của Đảng ta thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 14: quyết tâm tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân Ngụy, đánh đổ Ngụy quyền cấp cao; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở miền Nam, “trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến trnh đối với miền Bắc”. Có thể xem đây là mục tiêu chiến lược chủ yếu của đòn tiến công Tết Mậu Thân. Và trong khi hạ quyết tâm động viên nỗ lực của cả hai miền phấn đấu đạt mức cao nhất, Trung ương Đảng ta cũng đã lường tính tới khả năng cuộc tiến công chỉ đạt mức thấp hơn. Trong bức thư gởi khu ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-7-1967, đồng chí Lê Duẫn viết: “Phấn đấu tiến tới tổng công kích-tổng khởi nghĩa là quyết tâm cách mạng rất cao, là phương pháp cách mạng rất quyết liệt, rất triệt để của chúng ta. Song mặc khác, chúng ta phải có sách lược mềm dẻo và biết thắng với mức độ thích hợp”. Gần 3 tháng sau đó, tại cuộc họp kéo dài 5 ngày từ 20 đến 24-10-1967 bàn về việc mở cuộc tiến công Tết Mậu Thân, Bộ chính trị nhận thấy cho đến thời điểm này, nhiều nơi, nếu “đánh vào thị xã mà giữ lại ta cũng chưa làm được” và “khả năng tiêu diệt của ta còn yếu”. Đồng chí Trường Chinh chủ trì cuộc họp nhận định: “Ta tranh thủ giành thắng lợi cao nhất, song cũng có thể được mức độ thôi”. Để tiến công được vào toàn bộ đô thị trên toàn miền-nơi Mỹ Ngụy tổ chức phòng thủ chặt chẽ bằng nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều lực lượng, nhiều biện pháp, nhiều thủ đoạn… nhiệm vụ rất quan trọng và mới mẻ đặt ra cho các cơ quan chỉ đạo chiến lược phía Việt Nam là phải giải quyết một loạt vấn đề thuộc về nghệ thuật tiến công, nghệ thuật bố trí thế trận và lực lượng để có thể xuyên thủng các lớp vỏ bọc kiên cố xung quanh khu vực đô thị trước khi tiến công vào hàng loạt mục tiêu hiểm yếu bên trong. Trên tất cả các vấn đề này, một lần nữa, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, năng lực tổ chức và điều hành chiến tranh của Đảng ta đã thành công xuất sắc. Ta đã thực hiện thắng lợi kế hoạch nghi binh chiến lược, đặc biệt tổ chức vây hãm Khe Sanh, buộc địch bị lạc hướng đề phòng; phải dồn tâm trí và sử dụng một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ vào khu vực rừng núi thưa dân này, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho quá trình chuẩn bị thế trận, tập kết lực lượng, bố trí binh lực diễn ra hoàn toàn bí mật. Đồng thời, ta đã thành công trong việc chọn thời điểm, chọn mục tiêu, chọn hình thức và phương thức tiến công. Trong khi chiến lược quân sự của Mỹ là tìm diệt chủ lực quân giải phóng và các cơ quan đầu não cách mạng miền Nam, hòng “đưa chiến tranh tới tận xứ sở của đối phương”, và trong khi Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn vẫn nhất mực tin rằng chiến lược của đối phương là “lấy nông thôn bao vây thành thị” thì chiến tranh nổ ra đồng loạt, rất mãnh liệt ngay giữa lòng Sài Gòn và các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Đây quả là một hành động xuất thần, khiến các sĩ quan tình báo Mỹ sau này thú nhận: nếu như ngày đó, họ có bắt được toàn bộ kế hoạch tấn công của đối phương đi chăng nữa thì họ sẽ “không thể nào tin được và không hiểu nổi bản chất của kế hoạch đó”. Nhưng chính bản chất của kế hoạch táo bạo ấy, chính là nghệ thuật tiến hành chiến trnh đầy mưu lược của Đảng, là niềm tin lớn lao, khát vọng cháy bỏng, nghị lực phi thường của đồng bào yêu nước và Quân giải phóng miền Nam đã làm nên hiện tượng Tết Mậu Thân 1968. 4. Giai đoạn tổng tiến công giải phóng đất nước: Tháng 1-1960, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 18, định ra chủ trương mới nhằm đánh bại “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Trung ương Đảng vạch rõ tính chất thâm độc của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” cùng với những mâu thuẫn không thể khắc phục được của nó. Từ đó, xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là: kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách mạnh mẽ, toàn diện, liên tục, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh, đập tan âm mưu “Việt Nam hóa chiến trannh” của địch. Kiên quyết tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, làm thất bại chiến lược phòng ngự của địch, giành thắng lợi từng bước đi tới giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho quân Ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện quyết định để giải phóng miền Nam. Để thực hiện nhiệm vụ trên, Trung ương Đảng chủ trương tiếp tục phương châm, phương pháp cách mạng miền Nam: tiến công toàn diện cả về quân sự, chính trị và ngoại giao bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; tiến công trên cả ba vùng chiến lược, lấy nông thôn làm hướng tiến công chính. Quán triệt phương châm chiến lược đánh lâu dài, trên ccơ sở đó, tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn; phát triển mạnh lực lượng vũ trang ba thứ quân, đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chính qui. Trung ương Đảng còn nhấn mạnh: tích cực đề phòng sẵn sàng đối phó với khả năng địch mở rộng chiến tranh ở Campuchia để cắt đứt đường vận chuyển hậu cần của ta… Bị thua nặng, buộc phải ký Hiệp định Paris song đế quốc Mỹ ngoan cố, vẫn không từ bỏ âm mưu kéo dài chiến tranh. Chúng tiếp tục chỉ đạo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu liên tiếp tổ chức nhiều cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng. Do ta mất cảnh giác, địch đã lấn chiếm một số vùng giải phóng của ta, gây cho ta nhiều khó khăn mới. Trước tình hình đó, tháng 7-1973 BCH Trung ương Đảngkhóa III họp hội nghị lần thứ 21, đánh giá một cách tổng quát cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vạch rõ âm mưu và hành động của địvh, nhìn nhận các mặt mạnh, yếu của chúng cũng như của ta. Hội nghị kết luận: thế và lực của cách mạng đã mạnh hơn địch. Từ đó hội nghị chỉ rõ: “ Cách Mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công… Ta phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta…”. Thực hiện nghị quyết của Đảng, các lực lượng vũ trang giải phóng đã kiên quyết đánh trả những cuộc hành quân lấn chiếm của địch, kể cả những căn cứ xuất phát của chúng, tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng địa phương nổi dậy giành dân, giành quyền làm chủ, đập tan âm mưu “bình định” cấp tốc của địch. Nhờ vậy, vùng giải phóng được củng cố và mở rộng… Phong trào đấu tranh ở thành thị có những chuyển biến quan trọng. Nhân dân ngày càng thấy rõ bộ mặt phản động của chính quyền Ngụy và đòi hỏi phải lật đổ chúng. Qua một năm hoạt động dưới ánh sáng của Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng và nghị quyết quân ủy Trung ương tháng 3-1974, tình hình miền Nam đã có những biến đổi nhanh chóng. Ta thì ngày càng chủ động và mạnh lên, địch ngày càng bị động và yếu đi, so sánh lực lượng ngày càng nghiêng hẳn về phía cách mạng. Tháng 10-1974, Bộ chính trị và quân ủy trung ương đã họp để xem xét kết quả của các mặt công tác chuẩn bị, đánh giá độ chín mùi của thời cơ chiến lược và bắt đầu bàn về những điều cơ bản của quyết tâm chiến lược. Đây là một điều vô cùng trọng đại. Song để chính thức đi tới việc chính thức hạ quyết tâm chiến lược, Bộ chính trị thấy cần tiếp tục nghiên cứu tình hình kỹ lưỡng hơn nữa, khẩn trương tiến hành mọi mặt chuẩn bị chiến lược đầy đủ hơn nữa. Sau mấy tháng tiếp tục phấn đấu theo phương hướng trên, Bộ chính trị đã họp với sự có mặt của hầu hết các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, nhà nước, quân đội và các chiến trường miền Nam để đi đến quyết định cuối cùng về quyết tâm chiến lược. Từ ngày 18-12-1974 đến 8-1-1975 Bộ chính trị ban chấp hành trung ương Đảng đã họp hội nghị lịch sử để bàn kế hoạch giải phóng miền Nam. Hội nghị đánh giá khách quan so sánh thế và lực giữa ta và địch, xác định thời cơ chiến lược của cách mạng và nhất trí đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Năm 1975 phải trnh thủ đánh liên tục, tiêu diệt lớn sinh lực của địch, tạo điều kiện cho năm 1976 tổng công kích giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ chính trị còn dự kiến một phương án hành động cực kỳ táo bạo: nếu thời cơ đến đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức kiên quyết giải phóng miền Nam trong năm 1975. Chấp hành linh hoạt, sáng tạo chủ trương của Đảng,ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 bao gồm ba đòn chiến lược, được tiến hành liên tục về thời gian, liên kết về không gian, cùng với cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân đồng bằnng sông Cửu Long, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ thống soái ta chọn chiến trường Nam Tây Nguyên làm hướng chiến lược chủ yếu, lấy Buôn Ma Thuột làm khâu đột phá chiến lược mở đầu chiến dịch. Ngày 10-3-1975, quân và dân ta

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc-lsdhcm.doc