Tiểu luận Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

A.LỜI MỞ ĐẦU 2

B.NỘI DUNG 3

I. Tổng quan về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quốc dân 3

1.Cơ sở lí thuyết: 3

2.Cơ sở thực tiễn 5

II-Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 8

1.Những mặt tích cực 8

2.Những mặt hạn chế: 12

3.Ý kiến,đánh giá chủ quan của bản thân 15

III. Định hướng và giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong những năm tới 17

1.Trong nông nghiệp: 17

2. Trong công nghiệp 19

3.Trong dịch vụ 21

C.KẾT LUẬN 22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5835 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ may và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sự gặp gỡ cung và cầu công nghệ trình độ thấp đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển làm thay đổi cơ cấu kinh tế ở các nước này. Sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ đã tạo ra những lĩnh vực công nghệ mới, có hiệu quả cao đặc biệt là các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ mội trường. Việc thực hiện công nghệ này trước mắt chưa thu lợi nhuận, nhưng trong tương lai thì lại có cơ sở để giành vị trí thống trị hoặc áp đảo thị trường khu vực và thế giới. Trước những biến đổi nhanh chóng trên thế giới đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ để không bị lạc hậu, phải biết tận dụng những lợi thế của nước đi sau để phát triển, hội nhập mà không bị biến thành nơi tiếp nhận những công nghệ trình độ thấp, bị lệ thuộc vào các nước xuất khẩu công nghệ. Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới, dù chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua. Song so với các nước trong khu vực và trên thế giới chúng ta cần phải phấn đấu hơn nữa. Một trong những giải pháp quan trọng đó chính là phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu ngành cho phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và khu vực, thế giới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. b.Mục tiêu, con đường phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Với mục tiêu trên thì yêu cầu lực lượng sản xuất của chúng ta đến lúc đó sẽ đạt trình độ khá hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với hiện nay. Công nghiệp và dịch vụ sẽ phải chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và lao động xã hội dù nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Muốn thực hiện được mục tiêu đề ta chúng ta không còn cách nào khác là phải chuyển dịch cơ câú kinh tế, đặt biệt là cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm đáp ứng được sự phân công lao động quốc tế sớm đưa Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới tạo cho chúng ta có được chỗ đứng và thế mạnh trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng nhằm khai thác, tận dụng hết những tiềm năng của Việt Nam. Thứ nhất đó chính là tiềm năng con người, con người Việt Nam được đánh giá là thông minh cần cù, chăm chỉ, nhẫn nại, có óc cầu tiến, có năng lực hấp thụ cái mới, thích ứng với hoàn cảnh mới. Hơn nữa với dân số hơn 80 triệu dân với cơ cấu dân số tỷ lệ thanh niên cao thuận lợi cho phát triển. Với tỷ lệ lao động nông thôn cao việc chuyển dịch cơ cấu ngành cũng tận dụng được nguồn lao động dồi dào này. Thứ hai là tài nguyên thiên nhiên, dù không phải là nước giàu tài nguyên nhưng với số lượng vừa đủ để có thể trở thành những tích luỹ ban đầu quan trọng nhằm khởi động quá trình công nghiệp hoá và cung cấp nguyên liệu cho những ngành công nghiệp giai đoạn sau. Với bờ biển dài 3000 km và vị trí địa lý thuận lợi làm cho chúng ta dễ dàng tiếp cận được với thị trường thế giới. - Việt Nam đã gia nhập WTO, về cơ bản sẽ mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít những thách thức. Việc tận dụng tốt các cơ hội và đối phó với những thách thức buộc chúng ta phải có chiến lược công nghiệp hoá đúng đắn, có sự chuyển dịch kinh tế mạnh mẽ nhằm thúc đẩy sự phát triển trong nước, đưa hàng hoá của chúng ta đủ sức cạnh tranh đối với hàng hoá của các nước khác. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự cần thiết cho quá trình trên, nó sẽ giúp cho ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu của chúng ta có được sức sống để phát triển lớn mạnh. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quốc dân mang lại nhiều cơ hội cho sự phát triển công bằng. Như ta biết phát triển và xây dựng xã hội công bằng là hai mục tiêu nhiều lúc trái ngược nhau. Thế nào là phát triển công bằng? có nhiều khái niệm nhưng ở đây có thể hiểu đó là sự rút ngắn khoảng cách về mức thu nhập giữa các tầng lớp, thành quả của sự phát triển sẽ được phân phối đến mọi người một cách thoả đáng, công bằng. Ta thấy chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ mang lại điều này một cách tốt nhất, bởi nó tạo ra nhiều cơ hội làm việc và tạo điều kiện cho đông đảo tầng lớp dân chúng tiếp cận cơ hội đó. Chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng CNH đi liền với phát triển nông thôn nơi có đại bộ phận lao động, sinh sống tại đây làm cho mức sống của họ sẽ tăng lên. - Việt Nam là một nước đi sau trong phát triển, muốn đuổi kịp các nước khác một cách nhanh chóng thì cần phải có chính sách đúng đắn để “nhảy vọt”, “đi tắt”, “đón đầu”, muốn thế chúng ta cần phải có chính sách đúng đắn trong chiến lược công nghiệp hoá, đó chính là phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, phải có một cơ cấu ngành đủ mạnh sẵn sàng tham gia phân công lao động quốc tế và cạnh tranh trên thị trường thế giới. II-Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.Những mặt tích cực Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối... Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%/năm. Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640 USD). Năm 2006 GDP đã đạt mức tăng 8,2%, đến năm 2007, tốc độ tăng GDP của Việt nam là 8,44% đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc: 11,3% và Ấn Độ khoảng: 9%.)Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2007, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp đã giảm từ 38,7% xuống 20% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,5%, còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và 38,10% năm 2007.. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch… Ta có thể nhận thấy tỉ trọng ngành công nghiệp và ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu GDP của nền kinh tế quốc dân, đó là biểu hiện của xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng CNH, HĐH. Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh tạo nên sự chuyển dịch vượt trước, tạo tiền đề, cơ sở vật chất cho nông nghiệp và dịch vụ phát triển. Bên cạnh đó, trong nội bộ các ngành kinh tế cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo yêu cầu của quá trình CNH, HĐH. a/.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ngành nông nghiệp Bước vào đổi mới, trong quan niệm về CNH có hai sự thay đổi quan trọng. Đó là: khái niệm CNH phát triển thành khái niệm CNH, HĐH; quá trình CNH, HĐH diễn ra trong môi trường thị trường mở cửa. Hai thay đổi này phản ánh hai điểm mới cơ bản của tiến trình CNH, HĐH nói chung, CNH, HĐH nông nhgiệp nông thôn nói riêng.Việc thay cơ chế kế hoạch hoá tập trung bằng cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc thay đổi phương thức tiến hành công nghiệp hoá. Điểm mấu chốt ở đây là sự thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực, hình thành một động lực phát triển mới là cạnh tranh thị trường. Toàn bộ quá trình CNH, HĐH mới ở nông thôn thời gian qua phản ánh rất rõ sự thay đổi này. Đánh giá kết quả thực hiện CNH, HĐH mới ở nông thôn, có thể nêu những thành tích phát triển nổi bật của khu vực nông nghiệp nông thôn trên ba mặt sau: -Thứ nhất, lần đầu tiên nền kinh tế vượt qua "cửa ải" lương thực. Nước ta trở thành nước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. (2007),tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007, vượt kế hoạch đề ra (16%). Nền kinh tế bắt đầu cất cánh do không còn bị bó buộc trong cơ sở sinh tồn, thực sự có điều kiện nội tại để triển khai CNH theo đúng nghĩa. -Thứ hai, bắt đầu diễn ra quá trình phân công lao động mới ở nông thôn. -Thứ ba, định hình một phương thức phát triển mới, gắn với cơ chế thị trường mở cửa. Xu thế phát triển ở khu vực nông nghiệp nông thôn thời gian qua đã hình thành xác nhận tình hiệu quả và có triển vọng của mô hình CNH, HĐH thị trường, mở cửa. b/Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ngành công nghiệp Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu. Các sản phẩm công nghiệp quan trọng đều tăng khá như điện, thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than…Sự phát triển này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng GDP tính theo giá thực tế trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 23,2% năm 1996 lên 41,0% năm 2005, 41,6% năm 2006 và năm 2007 ước đạt 41,7%Tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP tăng dần thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế quốc dân (năm 2007 chỉ tính riêng khu vực công nghiệp chiếm khoảng 34,6%). Đây là năm thứ ba liên tiếp ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao. Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế, một số lọai sản phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như: lắp ráp ôtô, xe máy, đồ điện tử, đường, xi măng… đã cung cấp cho thị trường nội địa, vốn cần thiết cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nhiều mặt hàng có chất lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh (Tổng số vốn FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5 năm 1991 - 1995 là 17 tỉ USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD). Vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào dịch vụ 63,7% và công nghiệp 35,0%, ngành nông - lâm nghiệp thủy sản 1,3%. Năm 2007 cả nước đã thu hút 350 lượt dự án tăng vốn với số vốn trên 3,2 tỉ USD vốn đầu tư tăng thêm của các dự án cũ. Nét mới trong thu hút vốn FDI năm 2007 là cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch từ công nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ khách sạn, căn hộ cho thuê, nhà hàng, du lịch, tài chính, ngân hàng…tạo việc làm cho khoảng 90 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Đây được coi là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH… c/. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ngành dịch vụ Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Tăng 8,26%, (kế hoạch tăng 8%), năm 2006. Trong năm 2007 là tỷ trọng khu vực dịch vụ( 38,1%) tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO(mức tăng trưởng 8,1%). Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Ngành du lịch phát triển khá, cả về lượng khách, loại hình và sản phẩm du lịch. Nhiều loại hình dịch vụ mới: du lịch nữ hành... góp phần cải thiện cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng, văn minh, hiện đại phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của dân cư. Đặc biệt, với sự ra đời của một loại thị trường mới năng động, sáng tạo “Thị trường chứng khoán” đã làm mới , hứa hẹn mang lại sắc màu mới cho nền kinh tế non trẻ đầy tiềm năng như Việt Nam. 2.Những mặt hạn chế: a.Trong nông nghiệp: Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn vừa qua cũng bộc lộ nhiều vấn đề cần suy xét. Có thể nêu những vấn đề chính trong số đó là: * Cơ sở vật chất nền tảng cho sự bứt phá sang quỹ đạo phát triển mới của khu vực nông nghiệp - nông thôn nước ta là quan hệ đất đai lao động vẫn bị trói trong cái xiềng ngày càng thít chặt: từ cái "xiềng 3 sào" của thập niên 1960-1970 trở thành "xiềng 1 sào" thậm chí còn thấp hơn. Sự tích đọng dân số - lao động ở nông thôn hiện nay làm cho quá trình phân công lại lao động theo hướng CNH, HĐH của khu vực này trở nên ngày càng khó khăn. Dư thừa lao động trong nông thôn, nhất là lao động chưa qua đào tạo, không có trình độ cũng gây nhiều khó khăn cho chuyển dịch cơ câu sản xuất nông nghiệp. -Nước ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Sức cạnh tranh cao. Tốc độ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn còn rất chậm. Nền nông nghiệp nước ta vẫn còn phân tán, manh mún, năng suất lao động thấp, ngay cả những loại nông sản xuất khẩu chủ lực như gạo, cà phê, cao su, chè, thủy sản... chủ yếu vẫn là sản phẩm từ lao động thủ công. Bởi vậy, khó có thể hoàn thành công cuộc CNH, HĐH đất nước nếu nông nghiệp và kinh tế nông thôn không thoát được tình trạng lạc hậu, kém phát triển. -Một vấn đề quan trong nữa là hàng nông sản Việt Nam chưa tạo được thương hiệu cho riêng mình. Theo bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện nay, có tới 90% số hàng nông sản xuất khẩu của nước ta phải thông qua trung gian để bán với những thương hiệu nước ngoài, chỉ có khoảng 10% mang thương hiệu Việt Nam. b. Trong công nghiệp Ngành Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giữ tỉ trọng lớn trong nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch đáng kể. Tuy nhiên, nhìn chung khả năng cạnh tranh của khu vực công nghiệp còn yếu ngay cả với các nước trong khu vực. Trong khi tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khá cao thì tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm còn thấp (năm 2007 con số này là khoảng 17,1% so với khoảng 10,2%). Tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm chưa cao. Hầu hết các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu ở nước ta dưới dạng nguyên liệu hoặc dưới dạng gia công (giày dép, dệt may), lắp ráp (điện tử, máy vi tính), tỷ lệ sản phẩm chế tạo rất thấp, giá trị mới tạo ra trong sản phẩm chiếm tỷ trọng nhỏ. Công nghiệp chế biến phụ thuộc vào nguyên, vật liệu phụ nhập khẩu với chi phí cao dẫn đến giá bán cao. Điều này cho thấy nước ta đang thiếu trầm trọng ngành công nghiệp chế biến mà đây là một trong những nội dung quan trọng của tiến trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp công nghiệp có quy mô nhỏ, chưa chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, chủng loại sản phẩm chưa phong phú, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực quản lý, trình độ khoa học công nghệ... yếu kém. c.Trong dịch vụ Mặc dù có nhiều chính sách, hoạt động để thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, nhưng do chưa có một chiến lược phát triển tổng thể do vậy kết quả của xuất khẩu dịch vụ còn chưa tương xứng với tiềm năng. Ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa thực sự tạo ra môi trường tốt cho toàn bộ nền kinh tế phát triển. Tỉ trọng ngành dịch vụ trong GDP vẫn còn ở mức dậm chân(38,10% năm 2005 và vẫn giữ nguyên cho đến năm 2007). Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ như viễn thông, đường sắt. Ngay trong ngành dịch vụ mạnh nhất hiện nay là du lịch thì khả năng cung cấp các dịch vụ đi kèm còn rất nghèo nàn. Bình quân một khách du lịch đến Thái Lan chi tiêu từ 1.200 - 1.500 USD; tương tự tại Singapore khoảng từ 1.500 - 2.000 USD; ở các nước EU là 4.000 -  5.000 USD. Trong khi tại VN, trung bình một khách du lịch quốc tế thuộc diện giàu có, mức chi tiêu cũng chỉ khoảng 300 - 700 USD và bình quân cho tất cả các khách du lịch chỉ là 100 - 150 USD/người/ngày lưu trú, quá thấp so với các nước trong khu vực. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. 3.Ý kiến,đánh giá chủ quan của bản thân Nhìn một cách tổng quát, trong những năm đổi mới vừa qua, đi đôi với tăng trưởng và ổn định, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao, kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế  (2004: 26,003tỷ USD; 2005: 32tỷ USD; 2006: ~40 tỷ USD). Tăng trưởng kinh tế cùng với những thành công của chính sách dân số làm cho thu nhập bình quân đầu người tăng liên tục. Khả năng tích luỹ của dân cư tăng lên. Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế của nền kinh tế nước ta chưa đủ mạnh,. Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu là phát triển theo bề rộng, chậm chuyển biến về mặt chất lượng và phát triển theo chiều sâu. tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Nước ta vẫn là nước nghèo. Thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD theo tỉ giá sức mua tương đương của Việt Nam năm 2007 theo số liệu của Ngân hàng thế giới là 723 USD/năm chưa dư ngưỡng để vượt qua nước có thu nhập thấp (900 USD ) (Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng của hàng xuất khẩu thô, chưa qua chế biến lớn, tỷ trọng hàng gia công cao, những ngành hàng có trình độ công nghệ cao, hàm lượng chất xám lớn chiếm tỷ trọng thấp). Cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực, đúng hướng nhưng chưa mạnh. Ngành Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giữ tỉ trọng lớn trong nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch đáng kể. Tuy nhiên, yếu tố hiện đại hoá chưa được quan tâm đúng mức. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Tỉ trọng ngành dịch vụ trong GDP gần như không thay đổi trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ như viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.. Về cơ cấu thành phần kinh tế: Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần giải phóng sức sản xuất xã hội, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, bước đầu hình thành nên một nền kinh tế nhiều thành phần sôi động, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cơ cấu thành phần kinh tế còn bộc lộ những mặt hạn chế sau: - Tỉ trọng của thành phần kinh tế nhà nước còn cao, điều này là một nguyên nhân của tình trạng hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu của nền kinh tế. - Tỉ trọng của khu vực kinh tế cá thể cao phản ánh phương thức kinh doanh nhỏ lẻ, phân tán còn khá phổ biến trong nền kinh tế. - Khu vực kinh tế tư nhân còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, mặc dù đây là thành phần kinh tế hết sức quan trọng để thu hút các nguồn lực trong dân cư, để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giải quyết việc làm, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. - Tỉ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp và tăng không đáng kể trong những năm vừa qua, chứng tỏ sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của nước ta chưa được cải thiện tương xứng với mong muốn của các nhà đầu tư nước ngoài. III. Định hướng và giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong những năm tới 1.Trong nông nghiệp: Một là, nhận thức rõ đặc trưng của nước ta, từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp chuyển sang một nền nông nghiệp hàng hóa, cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường trong nước và xuất khẩu, đòi hỏi phải định hướng lại sản xuất nông nghiệp theo yêu cầu của thị trường Chú trọng hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu và triển khai, đầu tư thích đáng vào chuyển giao công nghệ, bằng con đường công nghiệp hóa công nghệ, - giải pháp căn bản và bền vững hơn cả, tạo ra sự phát triển nhảy vọt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đưa công nghệ sinh học, giống mới, quy trình sản xuất mới, công nghệ mới vào việc bảo quản, chế biến nông sản..., vào tăng trưởng của từng ngành, từng sản phẩm, từng lĩnh vực và từng vùng kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện sinh thái cụ thể. Xóa bỏ tình trạng độc quyền, hạn chế rủi ro thị trường bằng việc cải thiện điều kiện mua bán sản phẩm của người nông dân; củng cố hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cũng như đội ngũ cán bộ làm công tác này để có thể nhanh chóng ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp; xúc tiến công tác đào tạo nông dân cả về kỹ thuật sản xuất và quản lý kinh doanh để giúp họ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.. Hai là, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là một trong những giải pháp quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bài học kinh nghiệm của các nước đã công nghiệp hóa cho thấy, quy luật phổ biến là công nghiệp hóa bao giờ cũng đi cùng với đô thị hóa - một trong các giải pháp thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Việc hình thành mạng lưới đô thị, một mặt giữ vai trò là cực tăng trưởng trong chiến lược phát triển vùng trên phạm vi cả nước, mặt khác có điều kiện tạo thêm nhiều việc làm, thu hút một phần lao động nông nghiệp, từng bước giải quyết vấn đề dư thừa lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bảo đảm an toàn, ổn định đời sống của lao động nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp - nông thôn. Ba là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai... nhất là hệ thống luật pháp kinh tế nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần. Khuyến khích và tạo điều kiện cho hội nông dân ở cơ sở hoạt động có hiệu quả. Tăng cường các hoạt động phổ biến, hướng dẫn, sử dụng và chuyển giao quy trình công nghệ mới với các hình thức thích hợp. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế hộ - với tư cách đơn vị sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ ở nông thôn - lực lượng này giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo ra việc làm mới thu hút một phần lao động nông nghiệp. Khuyến khích mô hình hợp tác xã kiểu mới - loại hình tổ chức kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể trong khu vực nông nghiệp. Bốn là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển vùng trong phạm vi cả nước, quan hệ kinh tế giữa các vùng trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng. Phát triển các vùng nông thôn có lợi thế so sánh, có thế mạnh về tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập như vùng duyên hải, biển đảo, vùng miền Đông và Tây Nam Bộ... Định hướng, quy hoạch phát triển mạnh hệ thống thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản, nâng cao sức mua của thị trường trong nước, mà trọng tâm là khu vực thị trường nông thôn, kể cả hệ thống chợ nông thôn. 2. Trong công nghiệp Một là, tập trung xây dựng chiến lược quy hoạch, hoàn chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống luật pháp, chính sách thương mại. Kiện toàn và tăng cường công tác quản lý nhà nước tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp theo hướng, vừa hoàn thiện và tăng cường chính sách quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển, vừa tăng cường biện pháp kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo phát triển đúng hướng. Sớm hình thành một mạng lưới công nghiệp trong cả nước trên cơ sở đa dạng hóa về quy mô và chế độ sở hữu. Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm điểm công nghiệp trên phạm vi cả nước, hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm. Ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10760.doc
Tài liệu liên quan