Tiểu luận Chuyển giao công nghệ trong công nghiệp vào Việt Nam trong thời kì mở cửa hội nhập

Theo thống kê của Bộ khoa họcT -công nghệ và môi trường, hiện nay có trên 50% số dự án lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và có trên 520 báo cáo được thẩm định. So với công nghệ hiện có trong nước, công nghệ chuyển giao qua các dự án đầu tư nước ngoài có phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Đây là một trong những yêu cầu “ Phát triển bền vững” đang được đặt ra trên phạm vi toàn cầu.

Chuyển giao công nghệ là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta không thể không công nhận những đóng góp to lớn của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Nó đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, tăng thu nhập quốc dân, tiếp kiệm chi phí sản xuất, bố trí lại hợp lý lực lượng lao động và nâng cao trình độ lao động, đưa họ tiếp cận với trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới.

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6552 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chuyển giao công nghệ trong công nghiệp vào Việt Nam trong thời kì mở cửa hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hoạt động chuyển giao công nghệ tích cực vào các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam cho ta thấy sự đánh giá của họ về chuyển giao công nghệ đặc biệt là nhân tố con người. Như vậy trong một khuôn khổ nhất định định nghĩa về chuyển giao công nghệ là việc làm cần thiết. b. Đối tượng chuyển giao công nghệ Công nghệ gồm có hai phần: phần cứng và phần mềm . Sự phức tạp hay khó khăn không thể hiện nhiều ở phần cứng mà tập trung vào phần mềm bởi phần mềm rất trừu tượng, bí ẩn, giá cả không ổn định. Về vấn đề này bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam quy định hoạt động chuyển giao công nghệ bao gồm: - Quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối tượng sở hưũ công nghiệp - Chuyển giao thông qua mua bán, cung cấp các đối tượng (giải pháp kĩ thuật, phương án công nghệ quy trình công nghệ phần mềm máy tính, tài liêu thiết kế sơ bô và thiết kế kỹ thuật). - Các hình thưc hỗ trợ tư vấn. - Các giải pháp hơp lý hoá sản xuất. 1.3.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ a. Phân theo luồng Theo cách phân loại này có hai cách phân loại đó là chuyển giao dọc và chuyển giao ngang. - Chuyển giao dọc: là sự chuyển giao các công nghệ hoàn toàn mới mể đòi hỏi phải có một sự đồng bộ từ nghiên cứu thí nghiệm tới sản xuất thử rồi sản xuất hàng loạt để đảm bảo độ tin cậy về kinh tế và kĩ thuật. - Chuyển giao ngang: là sự chuyển giao công nghệ đã hoàn thiện từ doanh nghiệp này tới donh nghiệp khác từ nước này sang nước khác. So với chuyển giao dọc chuyển giao ngang ít rủi ro hơn song phải tiếp cận công nghệ dưới tầm người khác không hoàn toàn mới mẻ. b. Phân theo quyền lợi và trách nhiệm của người mua và người bán. Phân loại theo kiểu này đánh giá mức độ tiên tiến và giá cả của công nghệ gồm các hình thức sau: - Chuyển giao đơn giản: là hình thức người chủ công nghệ chuyển giao cho người mua quyền sử dụng công nghệ , thời gian và phạm vi hạn chế - Chuyển giao đặc quyền: người bán trao quyền sử dụng cho người mua trong một phqam vi lanh thổ. -chuyển giao độc quyền: là hình thức người bán trao toàn quyền sở hưu công nghệ cho người mua trong suốt thời gian có hiệu của hợp đồng c, Phân theo kiểu chuyển giao hay chiều sâu của chuyển giao công nghệ Trao kiến thức: việc chuyển giao chỉ dừng lại ở mức độ truyền đạt kiến thức bằng cách đưa công thức, hướng dẫn, tư vấn về kĩ thuật. - Chuyển giao công nghệ dưới dạng chìa khoá giao tay: Người bán phải thực hiện các công việc như lắp đặt máy móc, hướng dẫn chương trình hoàn tất toàn bộ quá trình sản xuất. - Trao sản phẩm: người bán không những có trách nhiệm hoàn tất toàn bộ dây chuyền sản xuất thành công toàn bộ công nghệ chuyển giao. - Trao thị trường: ngoài trách nhiệm như ở góc độ “trao sản phẩm” người bán còn phải trao một phần thị trường đã xâm nhập thành công cho bên mua công nghệ. 1.4. Cơ sở và vai trò của chuyển giao công nghệ 1.4.1. Cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ. Để hiểu rõ cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ, ta xem xét sự hình thành ưu, nhược điểm của công nghệ nội sinh để phân biệt giữa công nghệ nội sinh và công nghệ ngoại nhập và công nghệ do chuyển giao công nghệ. a. Công nghệ nội sinh Công nghệ nội sinh là công nghệ được tạo ra thông qua quá trình nghiên cứu và triển khai ở trong nước. Chu trình hình thành một công nghệ nội sinh trải qua các giai đoạn: tìm hiểu nhu cầu – thiết kế sản phẩm – chế tạo thử sản xuất. Truyền bá và đổi mới. + Các ưu điểm của công nghệ nội sinh. - Công nghệ nội sinh thường thích hợp với điều kiện trong nước do được thiết kế từ các dữ liệu thu thập theo nhu cầu của địa phương. - Người sử dụng dễ dàng làm chủ được công nghệ vì nghiên cứu triển khai ở trong nước, do đó dễ phat huy được hiệu quả. - Tiết kiệm ngoại tệ. - Không phụ thuộc vào nước ngoài, đặc biệt về kỹ thuật. - Tận dụng các nguồn lực sẵn có ở các địa phương, do thiết kế ở trong nước thưòng dựa vào các nguồn lực sẵn có. - Nếu trình độ NC -TK công nghệ đạt trình độ tiên tiến, có thể xuất khẩu công nghệ mang lại nhiều lợi ích. - Các cơ quan NC -TK thông qua thực hành nghiên cứu sáng tạo công nghệ mới có điều kiện nâng cao trình độ. + Những nhược điểm - Để có được một công nghệ cần có nhiều thời gian, tiền của và nhân lực, do việc tạo công nghệ mới là hoạt động nghiên cứu - triển khai, do đó nếu chỉ dựa hoàn toàn vào công nghệ nội sinh thời gian CNH sẽ bị kéo dài. - Nếu trình độ NC -TK không cao, công nghệ tạo ra sẽ ít giá trị gây lãng phí do không sử dụng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, công nghệ lạc hậu tạo ra sản phẩm không thể canh tranh trên thị trường ngay ở trong nước. b, Công nghệ ngoại sinh +Sự hình thành một công nghệ ngoại sinh: công nghệ ngoại sinh là một công nghệ được thông qua việc mua công nghệ do nước ngoài sản xuất. quá trìng có được một công nghệ ngoại sinh bao gồm: Nhập -thích nghi - làm chủ Trong số các công nghệ ngoại sinh một số được coi là chuyển giao công nghệ. +Chuyển giao công nghệ ngày nay là mua bán công nghệ có tổ chức. Các động cơ của bên giao và bên nhận có ảnh hưởng đến kết quả của chuyển giao công nghệ. Có thể chia các nguyên nhân xuất hiện chuyển giao công nghệ thành ba loại: Những nguyên nhân khách quan; những lý do xuất phát từ bên giao và những lý do xuất phát từ bên nhận. c. Những nguyên nhân khách quan dẫn đến chuyển giao công nghệ: + Không quốc gia nào trên thế giới có đủ mọi nguồn lực để làm ra tất cả các công nghệ cần thiết một cách kinh tế, do nhiều nước muốn có một công nghệ thường cân nhắc về phương diện kinh tế giữa mua và làm. +Sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia trên thế giới về công nghệ (85%các sáng chế công nghệ nằm trong tay sáu nước), nhiều nước không có khả năng tạo ra công nghệ mà mình cần, buộc phải mua để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết; + Xu thế mở rộng hợp tác, khuyến khích thương mại tạo điều kiện cho mua, bán kể cả mua bán công nghệ. + Các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại làm rút ngắn tuổi thọ của các công nghệ, khiến nhu cầu đổi mới công nghệ ngày càng tăng. Trong lĩnh vực công nghệ phát triển nhanh, chu trình sống của công nghệ rất ngắn, những người đi sau trong công nghệ này muốn có công nghệ đã xuất hiện trên thị trường thường thông qua chuyển giao thay vì bắt đầu từ NC - TK. d. Những lý do khiến bên giao công nghệ muốn chuyển giao công nghệ: + Thu lợi nhuận cao hơn ở địa phương hay ở chính quốc (do giảm chi phí nguyên vật liệu, nhân công và các chi phí cơ sở hạ tầng khác). + Chấp nhận cạnh tranh về sản phẩm để nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư, do đó có điều kiện đổi mới công nghệ. + Thu được các lợi ích khác như: Bán nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, tận dụng nguồn chất xám ở địa phương, tâm nhập vào thị trường bên nhập công nghệ... e. Những lý do khiến bên nhận muốn chuyển giao công nghệ: Đối với chuyển giao công nghệ từ nước ngoài bên nhận kì vọng vào: + Thông qua chuyển giao công nghệ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện đẩy nhanh phát triển kinh tế. + Tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu công nghệ cần thiết đặc biệt tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động. + Nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp bách; nhu cầu thiết yếu của xã hội nhu cầu đổi mới của công nghệ để đáp ứng sức ép cạnh tranh. + Có điều kiện nâng cao trình độ công nghệ học tập các phương pháp quản lý tiên tiến. + Tránh được rủi ro nếu phải tự làm do mua bản quyền công nghệ. + Nếu thành công có cơ hội đẩy nhanh quá trình CNH -HĐH. 1.4.2 Vai trò của chuyển giao công nghệ Chuyển giao công nghệ có vai trò to lớn đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế của mỗi nước nói riêng. Chuyển giao công nghệ có lợi cho cả hai bên bên giao và bên nhận. Đối với bên tiếp nhận: Họ có được công nghệ mới có trình độ cao hơn do công nghệ họ tiếp nhận đều là công nghệ của nước ngoài có trình độ cao hơn công nghệ trong nước đặc biệt là ở nước ta việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài có thể nâng cao trình độ kĩ thuật sản xuất nâng cao năng xuất lao động. Trong khi các công nghệ trong nước lại cũ kỹ và lạc hậu...một cái lợi nữa của bên tiếp nhận là; họ có thể tiếp kiệm được nguồn lực. Thay vì đầu tư nguồn lực cho nghiên cưu triển khai công nghệ nội sinh họ có thể đi mua công nghệ nước ngoài còn nguồn lựu đó có thể đầu tư vào lĩnh vực khác, việc khác... Đối với bên chuyển giao họ thu lợi nhuận từ chuyển giao công nghệ của họ kéo dài vòng đời công nghệ được chuyển giao tạo điều kiện thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Ngày nay trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới cùng với trình độ phân công lao động, chuyên môn hoá ở tầm chuyên sâu đến từng chi tiết sản phẩm. Hoạt động chuyển giao công nghệ góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển cho phép khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Mặt khác nó còn làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế thế giới theo hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp Công nghệ tạo năng xuất lao động cao hơn cùng sự phong phú về chủng loai sản phẩm phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của thị trường. nó là vũ khí cạnh tranh của các doanh nghiệp, các nền kinh tế cí vai trò to lớn đối với vấn đề môi trường trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và quá trình chế tác, sử dụng. PHẦN 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. Đặc điểm chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thêi gian qua. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XI về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006, Chính phủ giao Bộ khoa học và Công nghệ chủ trì biên soạn Luật chuyển giao công nghệ. Thời gian qua, hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt nam đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ sản xuất và phát triển kinh tế của đất nước. Chuyên gia công nghệ trong nước cũng đã cung cấp nhiều công nghệ với giá thành thấp so với nhập ngoại và phù hợp điều kiện trong nước… Trước khi đi vào đánh giá thực trạng của vấn đề người ta đã tổng kết lại một số đặc điểm của chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài như sau: -Công nghệ đưa vào Việt Nam chủ yếu thông qua hoạt động đàu tư nước ngoài. -Nhà đầu tư thường là người chuyển giao công nghệ. -Công nghe được sử dụng trong các dự án đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài là bên chuyển giao hoặc giới thiệu. -Công nghệ trong dự án đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài không nhất thiết phải chuyển tư công ty chính quốc mà có thể được chuyển giao từ một công ty khác. -Đây cũng là cơ sở để đánh giá chung về hoạt đọng chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 2.2 Những kết quả đạt được. Kể từ khi nền kinh tế nước ta mở cửa (1986) hội nhập với nền kinh tế khu vực nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung, hoạt động đầu tư nước ngoài cũng bắt đầu được đẩy mạnh. Hoạt động này đã thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Mặc dù còn nhiều thua kém so với các nước trong khu vực nhưng bước đầu bức tranh về một nền công nghiệp tồi tàn, lạc hậu đã được cải thiện. Đây là những cơ sở, những định hướng để chúng ta xây dựng một nền công nghiệp hiện đại trong tương lai. Hiện nay chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại WTO, đa và đang trên con dưòng hội nhập với thế giới thì việc chuyễn giao công nghệ để trang bị cho công nghiệp lại thuận lợi hơn. Có thể thấy kể từ đó chúng ta đã thu hút được một lượng vốn đầu tư khổng lồ, hàng ngàn hợp đông liên kết, liên doanh với cam kết hổ trợ hoàn toàn công nghệ tiên tiến nhất hiện nay. a. Về trình độ công nghệ: Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất. Trong hầu hết các ngành, công nghệ tiên tiến nước ngoài đã được đưa vào dưới dạng đổi mới đồng bộ hay từng dây chuyền công nghệ. Thực tiễn “ chiến lược đón đầu công nghệ” - một ưu thế của kẻ đi sau, các ngành bưu chính viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, đã tiếp nhận được những công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới. Một số ngành khác cũng cải thiện được phần lớn dây chuyền sản xuất, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh trong nước như: may mặc, giầy da, chế biến thuỷ sản..... Ngoài ra còn phải kể đến sự vực dậy của công ty Gang Thép Thái Nguyên thông qua một loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc, Đài Loan.... Như vậy, sự nâng cao trình độ công nghệ tại một số ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân cũng như tại các doanh nghiệp trung ương và địa phương đã góp phần nâng cao trình độ của nền công nghệ Việt Nam thời gian qua. b. Về trang thiết bị. Có thể nói công nghệ chuyển giao vào Việt Nam chủ yếu là phần cứng của công nghệ dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với thế giới các công nghệ dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với thế giới, các công nghệ này có độ lạc hậu ít nhất từ 1- 2 thế hệ. Nhưng so với nền công nghệ Việt Nam, đây là những trang thiết bị tương đối đồng bộ và có trình độ cơ khí hoá cao hơn công nghệ trong nước. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào Việt Nam các trang thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hoá cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài kỹ thuật số.... Nhìn chung, các trang thiết bị khá phù hợp với giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và góp phần tăng thu nhập quốc dân, đổi mới công nghệ sản xuất và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. c. Về chất lượng sản phẩm. Nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, nói chung chất lượng sản phẩm đã được nâng cao rõ rệt. Người tiêu dùng trong nước bớt đi tâm lý “ sính dùng hàng ngoại”. Một số sản phẩm đã chiếm được cảm tình của khách hàng trong nước và ngoài nước như: hàng may mặc, dày da, quạt điện, bánh kẹo, bàn nghế…Việc đầu tư chuyển chuyển giao công nghệ từ nước ngoài đã hạn chế đến mức tối đa việc nhập khẩu một số lượng lớn các sản phẩm: bia, gạch ốp lát, xi măng, sắt thép xây dựng…Đồng thời cũng giảm nhập khẩu các bộ phận linh kiện, chi tiết cho các sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp (đèn hình®, xe máy, tổng đài điện tử số….). Đến nay chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đã được thế giới biết đến và công nhận thông qua việc cấp chứng chỉ ISO cho một số doanh nghiệp. Đây là một nhân tố quan trọng giúp sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt khi hàng rào thuế quan được xoá bỏ trong thời gian tới. d. Về trình độ quản lý của các doanh nghiệp. Trình độ quản lý là một trong những mặt còn yếu kém của Việt Nam. Những năm qua, việc tiến hành hợp tác làm ăn với các nhà đầu tư nước ngoài đã giúp chúng ta tiếp cận với những phương thức quản lý mới. Đó là quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất nước. Đây cũng chính là mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta khuyến khích trong việc chuyển giao công nghệ. e. Về bảo vệ môi trường. Theo thống kê của Bộ khoa họcT -công nghệ và môi trường, hiện nay có trên 50% số dự án lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và có trên 520 báo cáo được thẩm định. So với công nghệ hiện có trong nước, công nghệ chuyển giao qua các dự án đầu tư nước ngoài có phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Đây là một trong những yêu cầu “ Phát triển bền vững” đang được đặt ra trên phạm vi toàn cầu. Chuyển giao công nghệ là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta không thể không công nhận những đóng góp to lớn của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Nó đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, tăng thu nhập quốc dân, tiếp kiệm chi phí sản xuất, bố trí lại hợp lý lực lượng lao động và nâng cao trình độ lao động, đưa họ tiếp cận với trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.3 Những mặt tồn tại. Bên cạnh những thành tựu chung đạt được thì trong chuyễn giao cho công nghiệp còn nhiều vấn đề tồn tại. Theo thứ trưởng Lê Đình Tiến, tính đến tháng 7/2005, đã có 5.563 dự án đầu tư nước ngoài thực hiện tại Việt nam, trong đó hầu hết các dự án đều có chuyển giao công nghệ; hàng trăm hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt nam của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của các doanh nghiệp vốn Việt nam đã được triển khai thực hiện. Tuy nhiên, đánh giá mới đây về trình độ công nghệ của nước ta cho thấy, vẫn còn 10% doanh nghiệp sử dụng công nghệ của những năm 70, 30% của những năm 80;50% của những năm 90 của thế kỷ trước.  Thứ trưởng Lê Đình Tiến cho rằng, thực trạng này là do chi phí cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn rất thấp (chỉ chiếm khoảng 0,2 – 0,3% doanh thu trong khi của các nước là từ 5-10%); nguồn tài chính hỗ trợ cho chuyển giao, đổi mới công nghệ còn thiếu; doanh nghiệp thiếu thông tin công nghệ; năng lực tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp chưa đủ tầm; cơ chế, chính sách, biện pháp tổ chức hỗ trợ, khuyến khích chưa đủ mạnh để thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành ứng dụng, chuyển giao công nghệ… Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động chuyển giao công nghệ chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ trong nước và từ nước ngoài vào Việt nam; đặc biệt là thiếu các biện pháp, chính sách khuyến khích, quản lý của Nhà nước; thiếu các quy định về dịch vụ hỗ trợ chuyển giao công nghệ… cũng là những nguyên nhân quan trọng khiến cho hoạt động chuyển giao công nghệ chưa đạt hiệu quả. Theo Tổng cục Thống kê năm 2003, chỉ có khoảng 8% số DN có công nghệ tiên tiến, 75% có công nghệ trung bình và lạc hậu. Còn theo số liệu của Bộ Khoa học - Công nghệ qua khảo sát nhiều DN thuộc 7 ngành, thì máy móc thiết bị dây chuyền của Việt Nam lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30-50%, thậm chí 38% là số máy ở dạng thanh lý, 52% đã qua bảo dưỡng sửa chữa. Trong từng DN, bộ máy còn cồng kềnh, vận hành nặng nề kém hiệu quả. Trong khi đó, số DN có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,45%, và DN có vốn trên 10 tỷ đồng mới chiếm 20,89%. Sau đây có thể kể đên một số nguyên nhân dân tới tình trạng trên về các mặt như: a. Công nghệ chuyển giao chưa thuộc loại tiên tiến, hiện đại trong khi đó giá lại quá cao. Một cuộc khảo sát công nghệ được chuyển giao tại 42 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho thấy: trong 727 thiết bị và 8 dây chuyền sản xuất thì có đến 76% thiết bị được sản xuất từ những năm 50-60, 50% máy móc đá qua sử dụng. Nhận định trên một lần nữa lại được chứng minh qua kết quả điều tra, đánh giá trình độ công nghệ trong các ngành công nghiệp nhẹ: - 46% doanh nghiệp có trình độ công nghệ ở mức trung bình khá có thể duy trì trong vòng 3-5 năm nếu thị trường ổn đinh. - 40% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, cần phải được cải tiến, nâng cao mới đáp ứng được nhu cầu. - 14% doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp, cần phải đổi mới. Trong số những công nghệ được khảo sát ở trên có những công nghệ lạc hậu mà thế giới đã loại bỏ lại được chuyển giao vào nước ta như: công nghệ sản xuất các chất tẩy rửa có sử dụng chất tạo bọt bằng DBSA. Một số công nghệ bị thanh lý ở chính quốc được đưa vào Việt Nam sau khi đã được tân trang cải tiến ít nhiều (dây chuyền sợi dệt, sản xất thuốc lá, dây chuyền sơn mái tôn lợp…). Phần lớn công nghệ chuyển giao có trình độ lạc hậu so với thế giới . Nhiều dây chuyền sản xuất còn sử dụng nhiều lao động thủ công, có trình độ cơ khí hoá thấp, trong khi đó nhiều công trình dự toán bị phía nước ngoài nâng giá lên từ 2 đến 2.5 lần. Vậy đâu là nguyên nhân của sự mâu thuẫn này? Lợi dụng sự kém hiểu biết của phía Việt Nam, đối tác nước ngoài không chuyển giao mọi công nghệ hiện đại, củ yếu nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao và nhanh. Những công nghệ có trình độ tiên tiến thường đắt tiền, thời gian hoàn vốn lâu. Bên cạnh đó, phía Việt Nam lại có tâm lý ỷ lại, trông chờ nhiều vào Nhà Nước, trình độ hiểu biết về công nghệ mới còn rất hạn chế, động cơ trục lợi cá nhân, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn, thụ động trong việc tìm kiếm công nghệ và đàm phán, ký hợp đồng. Sự hạn chế này là một phần do những điều kiện về môi trường kinh tế - xã hội chưa đầy đủ, thiếu hệ thống thông tin về công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ khác, năng lực nghiên cứu, triển khai công nghệ còn kém, chưa đủ nội lực làm cơ sở cho việc tiếp thu và phát triển công nghệ được chuyển giao…Hàng loạt các nguyên nhân khách quan và chủ quan trên cho thấy sự bất cập trong chuyển giao công nghệ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một vấn đề đáng được quan tâm thoả đáng. b. Những công nghệ được chuyển giao chưa tạo được lực đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao công nghệ va tự đổi mới công nghệ. Từ thực tế đáng lo ngại: công nghệ được chuyển giao phần lớn có trình độ yếu kém, lạc hậu so với thế giới thì hậu quả tất yếu sẽ là: chưa tạo được lực đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ và tự đổi mới công nghệ . Bởi trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay, đổi mới công nghệ diễn ra với hai hình thức chủ yếu: Thông qua liên doanh liên kết với nước ngoài tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới và tự đầu tư để đổi mới công nghệ. Không những công nghệ được chuyển giao chủ yếu là phần cứng, trong các lĩnh vực lắp ráp, gia công, chế biến và chỉ dừng lại ở khâu tiếp nhận, vận hành. Mặt khác sự tiếp thu công nghệ một cách thụ động đã khiến cho các doanh nghiệp khó nâng cấp và tự đổi mới công nghệ khi cần thiết. Chuyển giao công nghệ cũng chưa tạo được mối qua hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai tiến bộ kỹ thuật – công nghệ . Đây là điểm yếu của chúng ta nhưng lại là bí quyết thành công của các nước tiên tiến trên thế giới và ngay cả các nước trong khu vực như Malaysia, Singapo. c. Chuyển giao công nghệ trong điều kiện đổi mới công nghệ lẻ tẻ, thiếu quy hoạch và chiến lược thiếu sự gắn kết giữa phương hướng đổi mới chuyển giao công nghệ với chiến lược phát triển cũng như chiến lược phát triển kinh doanh. d. Thực hiện luật pháp trong chuyển giao công nghệ . Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các đự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài được thực hiện không theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ, không lập và ký hợp đồng hay chỉ ký hợp đồng giữa bên giao và bên nhận mà không trình để phê duyệt, nhiều hợp đồng do bên nước ngoài soạn thảo với điều kiện có lợi cho họ trái với quy định của pháp luật Việt Nam, chi phí chuyển giao công nghệ quá cao… Nhà nước ta khuyến khích chuyển giao công nghệ với phí chuyển giao là 5% giá bán hay 25 % lợi nhuận sau thuế trong thời hạn 7 năm (theo quyết định số 49t- HĐBT). Nhưng bên giao tìm cách không trình duyệt hợp đông chuyển giao công nghệ (chỉ có dự án đầu tư nước ngoài có hợp đồng chuyển giao công nghệ trình bộ Khoa học công nghệ và môi trường xét duyệt theo đúng pháp luậtc) e. Sự thiếu đồng bộ, thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong hoạt động chuyển giao công nghệ. Công nghệ chuyển giao vào trong nước phải có những điều kiện nhất định về cơ sở hạ tầng kỹ thuật để chọn lựa cho phù hợp cũng như phát huy tác dụng. Trong khi đó, sự thiếu đồng bộ thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện nay đã khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn: thiếu thông tin, thiếu năng lực quản lý, đổi mới, công nghệ … chúng ta đang từng bước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nhưng vẫn còn nhiều thua kém so với các quốc gia khác. f.Bảo vệ môi trường. Một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình “phát triển bền vững” đối với mọi quốc gia là yêu cầu bảo vệ môi trường. Cùng với việc chuyển giao công nghệ cũ, lạc hậu thì nỗi lo về môi sinh cũng được đặt ra. Khảo sát ở một số cơ sở sản xuất cho thấy: nhà may phân lân Văn Điển có lượng bụi tới 1100mg/m3 chiếm 90 % lượng chất thải vào không khí. Nhà máy cao su Hà Nội hơi xăng có nồng độ cao vượt tiêu chuẩn cho phép 40 lần… Bên cạnh tình trạng ô nhiễm không khí là sự ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt do các nhà máy dệt, nhuộm, thuộc da, hoá chất thải ra. Tiếng ồn, độ dung của máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ của công nhân lao động và nhân dân. Chúng ta cần những công nghệ tiên tiến và phù hợp để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, song không thể trở thành “ bãi thải công nghiệp” của các quốc gia phát triển PHẦN 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ THÔNG QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM 3.1. Giải pháp đổi mới từ phía Nhà nước Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều tiết nền kinh tế quốc dân. Nhà nước hoạch định chiến lược phát triển tổng thể của quốc gia tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực làm chủ công nghệ mới, cải tiến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp snág tạo công nghệ đưa đất nước ngày công nghệàg phát triển bền vững. Việt nam ngày càng có nhiều cơ hội để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế song phương và đa phương. Các quan hệ này sẽ mở đường cho các hoạt động đầu tư nước ngoài và quá trình chuyển giao những công nghệ tiên tiến thích hợp từ các nước có trình độ công nghệ cao. Một giải pháp quan trọng là Nhà nước phải tạo môi trườn đầu tư thuận lợi để thu hút các nhà đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuyển giao công nghệ trong công nghiệp vào Việt Nam trong thời kì mở cửa hội nhập.DOC
Tài liệu liên quan