Tiểu luận Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu 1

3. Kết cấu của đề tài 1

B. NỘI DUNG 2

I. Đặc điểm và thực trạng của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta 2

1. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta 2

2. Thực trạng của nền kinh tế 3

II. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam 4

1. Phát triển kinh tế hàng hoá do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn 5

2. Nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế 5

3. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân 6

III. Những giải pháp để phát triển kinh tế ở Việt Nam 7

1. Sự phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài 7

2. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước 7

3. Huy động vốn trong nhân dân cũng như tranh thủ viện trợ từ nước ngoài, tạo điều kiện phát triển kinh tế 7

4. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta 8

5. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 11

6. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường 12

C. KẾT LUẬN 14

TÀI LIỆU THAM KHẢO 15

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9774 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chúng ta đã có khoảng 22000 doanh nghiệp tư nhân, gáp 2 lần số doanh nghiệp nhà nước khi bắt đầu đi vào công cuộc đổi mới và gấp 3 lần số doanh nghiệp nhà nước có đến hiện nay. Con số này sẽ còn tiếp tục tăng nữa khi chúng ta đang thục hiện công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Khu vực ngoài quốc doanh (bao gồm không nhiều bộ phận của kinh tế hợp tác) chiếm trên 2/3 tổng sản phẩm trong nước. Từ thập niên 1990, làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu đổ vào Việt Nam. Việt Nam trở thành một trong những nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới.Bình quân tăng trưởng 5 năm(1990-1995) là 8,2%/ năm.( Năm 1995 tăng trưởng bình quân toàn thế giới là 3,5%, trong đó cao nhất là vùng Đông Á_ Thái Bình Dương: 8,1%, Mỹ: 3%, Nga: 1,6%... Các nước ASEAN vẫn tiếp tục giữ mức độ tăng trưởng khá: Singapore: 8,9%, Philipin: 5%, Thái Lan: 8,9%... Cho đến năm 2006, tốc độ phát triển của nền kinh tế nước ta đã là7,8 %,đứng thứ 28 về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đời sống của nhân dân cũng đã được nâng cao và cải thiện đáng kể.Nước ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục ở bậc tiểu học và giờ đang cố gẳng phổ cập giáo dục ở bậc trung học. Việt Nam được đánh giá cao về việc thực hiện phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh ở mức thấp, gây lãng phí tài nguyện Nền kinh tế vẫn nằm ở nhóm các nước kinh tế đang phát triển. Trong cơ cấu kinh tế, nông ngiệp vẫn chiếm 72,2% (2002), nền kinh tế vẫn chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp Nhad nước hoạt động kém hiệu quả. Một số thị trường vẫn chưa được thiết lập đầy đủ như: thị trường vốn, thị trường tiền tệ. thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ... Một số thể chế pháp luật và hành chính cần thiết cho nền kinh tế thị trường vẫn chưa được quy định hay đã được quy định nhưng không được thực hiện, gây ra tình trạng tham nhũng, cửa quyền..., làm chỉ số minh bạch của môi trường kinh doanh thấp. Sau 20 năm đổi mới, đồng tiền Việt Nam vẫn là đồng tiền không có khả nă người chuyển đổi và nhiều quốc gia, nhiều tổ chức vẫn không công nhận Việt nam có nền kinh tế thị trường. II. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam. Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ đan xen. Chủ trương này ra đời từ quá trình đổi mới, từ quá trình xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từ bối cảnh khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng chúng tôi chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Trên cơ sở mô hình tổng quát của nền kinh tế thị trường, đường lối kinh tế của nước chúng tôi được xác định trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI là : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước chúng tôi trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nhanh , có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. 1. Phát triển kinh tế hàng hóa do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Mỗi thành phần kinh tế bao giờ cũng thích ứng với một tính chất trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung quan trọng và có vai trò quyết định tới quan hệ sản xuất cũng như các thành phần kinh tế khác. Ở nước ta hiện nay do tính đa dạng về ytinhf độ của lực lượng sản xuất nên về hình thức, quan hệ sản xuất và thành phần kinh tế được đa dạng hóa là tất yếu. Vì vậy khi xác định các thành phần kinh tế cần phải xem xét đến tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, và tất nhiên phải xem xét trong trạng thái động. Một trong những tư tưởng xuyên suốt do hội nghị lần 4 Ban chấp hành TƯ Đảng khóa VIII nhằm cụ thể hóa và thực hiện thành công những mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội VIII của Đảng đề ra là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp định hướng XHCN. Xét về quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất luôn là yếu tố động nhất, quyết định đối với sự phát triển của sản xuất xã hội. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. 2. Nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng VIII khẳng định: "Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Trong giai đoạn lịch sử hiện nay đó là : kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường nước ta là nguoobnf lự tổng hợp to lớn để dưa nề kinh tế Việt Nam thoát khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế phát triển ngay cả trong tình trạng ngân sách hạn hẹp. Tuy nhiên cần lưu ý rằng mỗi thành phần kinh tế đồng thời vừa tồn tại độc lập, vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa hợp tác cạnh tranh, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn trong một chỉnh thể kinh tế xã hội. Không nên hiểu mỗi thành phần kinh tế như những bộ phận tách rời, những lực lượng tự trị và theo đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là sự hợp nhất cơ học của các thành phần đó. Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, một vấn đề có tính nguyên tắc cần phải nắm vững, đó là kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển trên thị trường. Nếu thành phần kinh tế Nhà nước đủ mạnh và đóng được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. Tuy nhiên cần luôn nhớ rằng thành phần kinh tế TBCN đã đang và sẽ có hậu thuẫn quốc tế rất mạnh. Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực chống phá XHCN đang tìm cách cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển manh, trở thành thành phần kinh tế chủ đạo ở nước ta. Do đó cần luôn cảnh giác, đề phòng cao độ. 3. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do đòi hổi nâng cao đòi sống nhân dân. Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp theo đó là chiến tranh kéo dài.Khi chiến tranh kết thúc, thống nhất đất nước, nhìn lại mình thì nước ta đa tụt hậu quá nhiều so với thế giới. Sự hỗ trợ to lớn của các nước XHCN là hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến. Nhưng ở thời kì hòa bình, xây dựng, đổi mới đất nước, hỗ trợ đó hầu như không có hiệu quả, thể hiện ở tình trạng lạc hậu về kĩ thuật so với các nước tư bản phát triển, ở cơ cấu kinh tế bất hợp lí và kinh nghiệm quản lí theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, ở sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào Nhà nước mà không chịu phấn đấu. Cùng với sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu, Việt Nam đứng bên bờ của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nhóm các nước nghèo nhất thế giới. So sánh chỉ tiêu kinh tế xã hội giữa Việt Nam và các nước ASEAN năm 1 GDP bình quân trên đầu người(USD) Chỉ số HDI Vị trí HDI trong 176 nước Việt Nam 170 0,514 116 Indonexia 730 0,568 105 Malayxia 3160 0,794 57 Philipin 830 0,621 99 Singapo 19310 0,836 43 Thái Lan 2040 0,798 54 (HDI: chỉ số phát triển con người.) Sau khi đổi mới, chất lượng cuộc soongd của nhân dân đã được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp. Sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp nhân dân diễn ra gay gắt và trở nên rõ nét. Đời sống của 1 bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, đồng bào dân tộc còn quá khó khăn, vất vả. Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế ở nhiều nơi còn thấp kém.Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó nguồn tài chính từ ngân sách và các nguồn lực khác có thể huy động cho phúc lợi xã hội vừa hạn chế, vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, hủy hoại tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng. Văn hóa phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế, ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Sự thành công của một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởn kinh tế cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp nhân dân đều được tăng lên, y tê giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đaoh đức truyền thống, bản sác văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường được bảo vệ. III. Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam. 1. Phát triển kinh tế hàng hóa theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Sự ra đòi và phát triển của kinh tế hàng hóa đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín, kem phát triển, bảo thủ trì trệ. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã lamg cho thị trường dân tộc hoaatj động gắn bó với thị trường thế giới. Việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì sản xuất và trao đổi hàng hóa tất yếu vượt qya phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế. Đồng thời đó cũng là tất yếu sự phát triển nhu cầu. Thông qua mở rộng quan hệ với các nước khác để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong, tạo điều kiện cho phát triển rút nắng ở nước ta. Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước khác bằng nhiều cách như: Tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút vốn đầu tư cho nước ta, gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những mặt hàng mũi nhọn có trong tương lai, gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới... nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu của nền kinh tế thế giới. Việc "mở cửa" về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhay, bảo đảm chủ quyền và cùng có lợi. 2. Phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lí của Nhà nước. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm nhưng nền kinh tế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và đời sống kinh tế xã hội gây ra. Vif vậy, sự tác động của Nhà nước _ một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khác quan vào nền kinh tế là một tất yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước sử dụng luật pháp và các công cụ kinh tế vĩ mô khác để quản lý kinh tế hàng hóa, làm cho nền kinh tế "lành mạnh" hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển, khắc phục được tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường của đất nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta là sự thống nhất giữa cơ chế thị trường- "Bàn tay vô hình" có sự quản lý của nhà nước- "bàn tay hữu hình". 3. Huy động vốn trong nhân dân cũng như tranh thủ viện trợ từ nước ngoài, tao điều kiện phát triển kinh tế. Mặc dù Nhà nước khuyến khích nhưng việc hy động vốn trong nhân dân vẫn không đạt hiệu quả cao. Nguồn tài chính trong dân khá lớn nhưng chưa được sư dụng để phát triển sản xuất. Ước tính có khoảng trên 10000 tỷ đồng, bao gồm 5000 tỷ nằm ở dự trữ vàng và đô la; 3000 tỷ xây dựng nhà cửa; 1000 tỷ mua sắm đồ dùng cao cấp như xe máy, tivi, điều hòa... Đó là còn chưa kể trên 3000 tỷ đồng tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Số tiền này là khá lớn. Thực tế trong cơn sốt thị trương chứng khoán vừa qua, ta đã biết nguồn tiền trong dân là rất lớn. Vì vây, Nhà nước cũng như các ngân hàng cần có các chính sách để huy dộng nguồn vốn này. - Đầu tiên cần thay đổi thói quen dự trữ tiền mặt trong tay dân cư. Nếu mọi giao dịch đều qua ngân hàng, chúng ta sẽ có nguồn vốn luân chuyển cho các doanh nghiệp vay. Đồng thời, Nhà nước cũng dễ dàng trong việc quản lý các doanh nghiệp. - Nhà nước cần xây dừng các khu công nghiệp. Từ đó tận dụng nguồn tài nguyên đất trống, phát triển kinh tế tại các vùng còn khó khăn, tạo công ăn việc làm cho người dân tại khu vực đó. - Để nhân dân yên tâm bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh và hoạt động đúng hướng, Nhà nước phải đưa ra được hệ thống các văn bản pháp quy như luật kinh doanh, luật thừa kế, luật chuyển nhượng, luật mua bán lao động... Đồng thời hoàn thiện chế độ đăng kí kinh doanh, kế toán, thồng kê. Các luật và các chế độ này không chỉ đảm bảo lời ích của Nhà nước mà phải giải quyết thỏa đáng 3 lợi ích: Nhà nước_ tập thể_ cá nhân. Khuyến khích làm giàu trên cơ sở bỏ vốn kinh doanh đúng pháp luật. Việc định ra các luật thuế và chế độ phải giữ ổn định trong thời gian tương đối dài, nếu có thể thay đổi chỉ nên theo hướng có lợi cho người bỏ vốn ra đầu tư chứ không phải thắt dần và tước bỏ bớt lợi ích của họ. Luật và chế độ ban hành cần phải đạt được yêu cầu hết sức quan trọng là xóa bỏ được ấn tượng đã ăn sâu vào trong tư tưởng của những người sản xuất kinh doanh tư nhân, cá thể về cách thức Nhà nước tước đoạt hoặc cải tạo gò ép họ. Thực hiện được các yêu cầu này tức là giải quyết được một trong những hướng cơ bản trong chiến lược tạo vốn, chuyển từ việc cung cấp vốn chủ yếu từ ngân sách Nhà nước sang sử dụng vốn xã hội. 4. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phàn ở nước ta. a. Đối với kinh tế Nhà nước. Cần xác định rõ rằng kinh tế Nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Và muốn đạt được điều đó, chúng ta cần thực hiện một số vấn đề sau đây: Thành phần kinh tế Nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy vai trò chủ đạo, để thực hiện và phát huy nghĩa vụ mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Một bộ phận quan trọng của kinh tế Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp này phải phát triển trên nguyên tắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, phải bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc thành phần khác. Phải làm sao cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành một công cụ để Nhà nước khắc phục được các khiếm khuyết của thị trường và có thể can thiệp vào nền kinh tế bất cứ lúc nào cần thiết. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa quan tâm nhiều đến việc đổi mới công nghệ, giải quyết lưu động vốn để phát huy năng lực sản xuất. Nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài. Để kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo ta cần đổi mới theo định hướng: - Hoàn thành việc phân định các doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cũng như các doanh nghiệp kinh doanh có vi trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ số vốn lưu động cần thiết, được vay vốn với lãi suất ưu đãi để đổi mới thiết bị công nghệ toàn tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý. Đối với các doanh nghiệp này, cần để cho các doanh nghiệp tự hoạt đông, kinh doanh. Lãi được hưởng, lỗ phải chịu. - Xác định các lọa doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm 100% vốn và các doanh nghiệp cần nắm số cổ phần ở mức thấp. Đa dang hóa các loại hình sở hữu. Đối với các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, thua lỗ kéo dài, Nhà nước có thể bán, cho thuê hoặc cổ phần hóa... Hướng dẫn, đôn đốc quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp theo những danh mục đã xác định, đảm bảo tiến độ triển khai và kịp thời rút kinh nghiệm để tiến hành một cách vững chắc, không để xảy ra những sai lầm đáng tiếc. Đối với biện pháp tổng công ty hóa, các doanh nghiệp cần được xem xét lại theo hướng thu hẹp đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện trực tiếp với nước ngoài. Song song với đó là xây dựng các công ty đa ngành, đa sở hữu; tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và thành viên của tổng công ty. b. Đối với các thành phần kinh tế khác: - Nhà nước cần đảm bảo thực hiện công bằng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác. - Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được thực hienj theo nguyên tắc tự nguyện và trên cơ sở rính chất xã hội hóa thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao chính là không cô lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các hình thức hợp danh, đan xen các quan hệ sử dụng khac nhau vào cùng một lĩnh vực, thậm chí trong cùng một công ty, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp danh cần trở thành một trong những hình thức cơ bản tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trong sản xuất nông ngiệp, do tính đặc thù của nó nên ngoài việc phải giải quyết tốt quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, còn phải chuyển kinh tế hợ tác hiện nay thành kinh tế trang trại. Kinh tế hộ nhận khoán là cơ sở hình thành kinh tế nông trại và các tổ chức nông trại. c. Tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mô để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả, bao gồm: - Hoàn thiện nhanh chóng hệ thống tài chính ngân hàng bằng những công nghệ kỹ thuật ngiệp vụ hiện đại, đảm bảo thông suốt trong và ngoài nước. Đại bộ phận các khoản thanh toán ngân hàng phải đảm đương được qua bộ máy của mình; sử dụng tiền mặt chỉ ở mức hạn chế. Tín dụng ngân hàng phải thực hiện đi vay để cho vay chứ không dựa vào nguồn phát hành và chủ yếu đảm bảo cho kinh tế quốc dân hiện nay. Hoạt động tài chính cũng phải được đổi mới, lấy thu lường chi, thu đủ và chi đúng, trong điều kiện nguồn ngân sách hạn hẹp không nên vượt quá kar năng bằng cách đi vay nợ được ngoài và phát hành. Điều đó chỉ dẫn đến lạm phát. - Phải nhanh chóng xây dựng được một thị trường đầy đủ. Ở nước ta hiện nay còn thiếu nhiều thị trường quan trọng của nền sản xuất hàng hóa như: thị trường vốn, thị trường lao động... - Thời đại ngày nay thông tin được coi là yếu tố của lực lượng sản xuất. Thông tin là sức mạnh của quyền lực. Vì vậy cần hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ các nhà doanh nghiệp, phát huy dân chủ hóa trong đời sống kinh tế. hệ thống thông tin kinh tế nước ta còn rất yếu và tổ chức không hợp lý, thông tin bị chia cắt. Số người hiểu biết về việc thu nhập, xử lý, tổng hợp và sử dụng thông tin trong nền kinh tế thị trường chưa nhiều, nhìn chung vẫn theo lối quản lý nền kinh tế theo lối kế hoạch hóa tập trung trước đây. Để đổi mới hoạt động này, phải coi hoạt động thông tin trong nền kinh tế là một ngành dịch vụ, trong đó tất cả các thành phần kinh tế có thể và cần thiết tham gia. - Xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi và các nhà quản lý vĩ mô có tài, đồng thời liên kết họ lại với nhau. Cái thiều hụt lớn nhất của chúng ta hiện nay là ở chỗ này. Chúng ta có một đội ngũ cán bộ quản lý khá đông đảo nhưng chất lượng không phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế. Có một bộ phận đã quá quen với cơ chế quản lý cũ, đến nay hoàn toàn không đủ khả năng thích ứng với cơ chế mới. Biểu hiện của bộ phận này là luôn kêu khó khăn, không tụ tìm cách tháo gỡ mà chỉ đi tìm sự trợ giúp theo kiểu bao cấp trước đây của Nhà nước. Một bộ phận khác chưa được đào tạo chu đáo trước khi bố trí họ đảm nhận các cương vị chủ chốt trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Phần lớn cán bộ quản lý ở xã và hợp tác xã mới đạt trình độ văn hóa cấp I và II, hầu hết chưa qua đào tạo có hệ thống nên áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật chậm. Có một bộ phận không nhỏ trong các cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô hiện nay đang dấn sâu vào tệ nạn tham nhũng. Thời gian gần đây, chúng ta đã đặt vấn đề chống tham nhũng lên vấn đề cấp bách, cần giải quyết nhưng kết quả vẫn chưa khả quan. Nguyên nhân chủ yếu là do xử lý chưa nghiêm, còn né tránh. Ngoài ra còn do quy mô của các đường dây tham nhũng này là khá lớn nên việc xử lý còn rơi vào tình trạng bao che lẫn nhau hoặc không xử lý được hết. - Nhanh chóng phổ cập nghề cho người lao động. Mỗi năm nước ta có khoảng 1,2 triệu người đến tuổi lao động. Nhiều thanh niên đến tuổi lao động nhưng chưa được đào tạo nghè hoặc chưa thành thạo. Trình độ lao động của ta còn ở mức thấp. Hướng ưu tiên đầu tư của thế giới hiện nay là lao động có kỹ thậu chứ không phải sử dụng lao động không kỹ thuật, giá cả sức lao động rẻ như những năm trước đây. Do đó ta cần ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, có kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu của nước ta cũng như của thế giới. d. Đối với loại hình sản xuất nhỏ của nông dân và ngườ buôn bán nhỏ. Với những năm đổi mới ở nước ta, kinh tế hộ gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với loại hình sản xuất này, Nhà nước cần có những chính sách trợ giúp cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra; thông qua những chính sách thuế để trợ giúp thành phần kinh tế này e. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Hiện nay kinh tế tư nhân sản xuất lớn ở nước ta còn ít, lại nặng về hoạt động thương mại, dịch vụ phục vụ đời sống; còn lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tỷ trọng thành phần kinh tế tư bản tư nhân chưa đáng kể. Đó là vì lý do e ngại đầu tư trong nhân dân. Do vậy Nhà nước cần có chính sách để thành phần này phát triển theo luật định, không hạn chế tư nhân, cá thể bỏ vốn vào đầu tư sản xuất. Nhất là Nhà nước cần có những chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư kinh doanh phát triển nông nghiệp, từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn. Cần có kế hoạch nghiên cứu lại chính sách hạn điền chuyển dịch ruộng đất theo hướng tích tụ và tập trung, phát triển mô hình kinh tế trang trại. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân, không tránh khỏi tính tự phát là chạy theo lợi nhuận đơn thuần trước mắt, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Hiện nay, ở nước ta tình trạng buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, tiêu thụ hàng giả còn phổ biến. Bởi vậy, Nhà nước cần sử dụng nhiều biện pháp để hạn chế, ngăn chặn những khuynh hướng tự phát, những hiệ thượng tiêu cực và hướng sự phát triển của thành phần kinh tế này theo định hướng XHCN. g. Đối với thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta hiện nay, số vốn đầu tư phát triển còn thấp, do vậy Nhà nước cần có những chính sách thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước. Đối với các nhà tư bản nước ngoài, để khuyến khích họ đầu tư cần tạo tam lý yên tam bằng cách giữ vững sự ổn định chính trị xã hội để họ thấy rằng những khoản đầu tư của họ được an toàn. Nhà nước cần có những chính sách khai phá những vùng đất còn bị bỏ hoang, những vùng thuộc nông thôn, miền núi; có những ưu đãi đặc biệt cho những người đi khai phá và phát triển ở vùng này. Mặt khác cần xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, giao lưu buôn bán giữa các vùng này với những vùng kinh tế phát triển trong nước. 5. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội cũng chính là đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nước ta cần phải phát triển mạnh theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu. Trong mấy năm vừa qua, tỷ lê xuất khẩu của nước ta tăng lên đáng kể nhưng việc thúc đẩy xuất khẩu gặp một số khó khăn như công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta chủ yếu được hình thành trong cơ chế tập trung bao cấp, do vậy máy móc lạc hậu, các xí nghiệp, kho tàng bến bãi quá cồng kềnh, công suất lại thấp. Hiện nay tuy đã có sự thay đổi bằng những công nghệ hiện đại hơn và có sự chuyển biến trong mặt hàng xuất khẩu nhưng những hàng xuất khẩu của Việt nam chủ yếu là ở dạng thô và nguyên liệu chưa qua chế biến nên tuy rằng tài nguyên rất lớn nhưng chưa thu được bao nhiêu. Nước ta cần phát triển công nghiệp chế biến sao cho việc xuất khẩu của nước ta là những sản phẩm đã qua chế biến. Có như vậy, việc xuất khẩu của nước ta mới phát triển mạnh dần và thu được lợi nhuận cao hơn. Cần phải phân công lại lao động theo hướng chuyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2064.doc
Tài liệu liên quan