Tiểu luận Cơ cấu thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam

MỤC LỤC

Mở đầu 1

Nội dung 2

I. Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ qúa độ ở nước ta. 2

1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa 2

2.Lý luận của Mác - Lênin về sự phát triển của sản xuất hàng hóa và kinh tế hàng hóa. 3

3.Ưu thế của sản xuất hàng hóa 4

4.Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hóa trong thời kỳ quá độ. 5

II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam. 6

Do yêu cầu của phát triển lực lượng sản xuất. 6

2.Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế. 7

3.Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân 8

 III. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa. 9

1.Thực trạng kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay. 9

1.1.Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới. 9

1.2.Những khó khăn và thách thức mới. 10

2Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa Việt Nam. 11

2.1 Đẩy mạnh quá trình đưa dưạng hóa sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. 11

2.2 Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội. 15

2.3 Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. 15

2.4 Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản ly vĩ mô của Nhà nước. 18

2.5 Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách nền hành chính quốc gia. 18

Kết luận 20

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ cấu thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bởi vậy sản xuất hàng hóa tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì: Thứ nhất, khi mà phân công lao động xã hội phát triển kéo theo chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó sẽ nảy sinh thêm những mối liên hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội. Thứ hai, đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt, độc lập với nhau nhưng họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội, do đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hóa tức là phải có sản xuất hàng hóa. Thứ ba, quan hệ hàng hóa tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng nó vẫn có sự tách biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh hay hiệp tác với nhau, nó còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, về hiệu qủa sản xuất kinh doanh dẫn đến có sự khác biệt nhau về lợi ích kinh tế, chúng ta không thể dùng phương pháp bình quân, bằng ở đây được. Thứ tư, sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa tiền tệ còn chính là điều kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước trên thế giới bởi vì mỗi nước vẫn là những quốc gia riêng biệt, là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hóa. Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng hóa tồn tại là một tất yếu và cần thiết không thể cưỡng lại và không thể dùng mệnh lậnh để ngăn cấm, xóa bỏ sản xuất hàng hóa. II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều hành phần ở Việt Nam. Do yêu cầu của phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung và xã hội hóa quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân. Sự hình thành của các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, công ty đưa quốc gia và xuyên quốc gia chính là những biểu hiện của quá trình xã hội hóa quan hệ sở hữu ở một trình độ nhất định. Khi mà lực lượng sản xuất đang ở mức thấp thì tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu nhỏ và phân tán. Thế giới ngày nay do phát triển lực lượng sản xuất của khoa học, công nghệ mà giàu có rất nhanh nhưng đi liền với nó là bất công xã hội ngày càng nhiều, sự giàu có phát triển không làm cho bất công xã hội giảm đi mà ngày càng phát triển, để giải quyết mâu thuẫn này không có cách nào khác là khi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết công bằng xã hội, nhưng giải quyết công bằng xã hội ở đây không có nghĩa là cào bằng, sự siêng năng, tích cực và biếng nhác, làm ăn có hiệu quả đều được hưởng như nhau, làm như vậy sẽ làm triệt tiêu động lực phấn đấu của con người, ở đây cần phải dùng quan hệ hàng hóa tiền tệ để phân chia quyền lợi, chỉ có làm như vậy mới giảm bớt được bất công của xã hội. Hơn nữa trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta còn ở mức rất thấp, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập, do vậy việc trao đổi sản phẩm không thể thực hiện bằng cách nào khác là thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ. Trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải nâng cao xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động mà điều này chỉ có thể diễn ra thuận lợi trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, trên thế giới, do sự phát triển của lực lượng sản xuất của khoa học công nghệ, đang có xu hướng quốc tế hóa đời sống nhân loại, xu hưóng này mở ra cả chiều rộng và chiều nghịch, cả mặt tích cực và tiêu cực tác động đến con người, đến các quốc gia. Xu thế này đòi hỏi sự giao lưu hợp tác, hiểu biết lẫn nhau giữa các vùng và các quốc gia. Do vậy cần phải phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta để việc giao lưu, hợp tác với các nước khác trên thế giới được dễ dàng, tiện lợi. Mặt khác, sản xuất hàng hóa phát triển kéo theo lực lượng sản xuất phát triển làm sản phẩm xã hội ngày càng phong phú đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của con người. 2. Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Việc đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng hóa tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu đã được đặt nền tảng tư tưởng bởi nghị quyết đại hội VI (năm 1986) có tính quyết định cho việc lựa chọn chuyển hoạt động của nước ta sang cơ chế thị trường nhằm nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Từ những quan điểm đó chính phủ đã chủ trương chuyển việc mua bán tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng ... từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang việc mua bán thông qua thị trường . Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tương ứng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với nó là sự tồn tai và phát triển kinh tế hàng hóa. Đối với nền kinh tế nước ta với lực lượng sản xuất chưa đồng đều chúng ta đã nhận định được rằng chỉ có phát triển kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng khắc phục được tình trạng không đồng đều đó của lực lượng sản xuất. Hiện nay, nước ta vẫn đang phải gánh chịu những hậu qủa nặng nề do sự sai lầm về đường lối, chính sách thời trước đổi mới, hậu qủa chúng ta phải gánh chịu đó là nền kinh tế kém phát triển, làm mất khả năng cạnh tranh và những tác dụng tích cực của kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt (huy động được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật và phát huy được mọi tiềm năng của con người Việt Nam) có khả năng đưa nền kinh tế vượt qua đựơc tình trạng thấp kém đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển ngay trong điều kiện nguồn vốn, ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp. Một điều có ý nghĩa khá lớn mà chúng ta đã nhận định được đó là : do trong nền kinh tế hàng hóa chịu sự tác dụng của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, bởi vậy lao động dịch vụ trong ngành dịch vụ có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ, góp phần giải quyết được vấn đề công ăn việc làm ở nước ta hiện nay. Trong điều kiện đó các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, tác dụng làm cho kinh tế hàng hóa và dịch vụ phát triển. Vậy đối với nước ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhu cầu khách quan, là xu thế tất yếu hợp với thời đại. 3.Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân Vào thời kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, dân tộc ta bị sống đoạ đày dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong ách áp bức bóc lột nhiều phong trào yêu nước đã kế tiếp nhau diễn ra để chống lại bọn cớp nước và bè lũ bán nước nhưng những phong trào đó lần lượt bị thất bại do không tìm được ra con đường đúng đắn. Trong bối cảnh đó Hồ Chí Minh với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng nhà Rồng và người đã tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Ngày từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng mới giành được, người đã nêu bật một chân lý “nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì” và người thường căn dặn “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối khó nhưng thắng nghèo nàn, lạc hậu mới khó khăn hơn nhiều”. Đối với nước ta trong thời kỳ trước đổi mới (1986) do những sai lầm trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa, cho rằng kinh tế hàng hóa là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản, điều này đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát gia tăng một cách khủng khiếp (có thời kỳ lên tới 600 - 700%) đời sống nhân dân khổ cực. Trước những thực trạng đó của đất nước Đảng ta đã nhận ra sai lầm và đã đề ra phương hướng đổi mới đất nước đó là vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước kể từ sau đại hội VI (1986). ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hàng hóa và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nông sản đã làm cho hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên một cách đánh kể. Thực tiễn những năm đổi mới đã chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó mà những năm vừa qua, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn kỹ thuật nước ngoài, phát triển lực lượng sản xuất. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa. 1.Thực trạng kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay. 1.1.Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới. Cho đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đưa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Từ khi có chính sách đổi mới thành tựu nổi bật nhất đó là đẩy lùi được lạm phát, chỉ trong một thời gian ngắn hàng loạt các đơn vị của thành phần kinh tế kinh doanh thương mại được hình thành, hoạt động trên mọi lĩnh vực từ xuất nhập khẩu đến kinh doanh thiết bị nhỏ lẻ trên cả nước. Các tổ chức này ra đời đã làm cho thị trường trở nên sôi động, khối lượng hàng hóa và tiền vốn từ nhiều nguồn được huy động vào lưu thông với mức mà trước đây chưa khi nào có được. Việc ngăn sông cám chợ được xoá bỏ, việc mua bán lưu thông hàng hóa được dễ dàng, tình trạng khan hiếm hàng hóa được đẩy lùi, hiện tượng chênh lệch giá giữa các vùng, khu vực bị hạn chế, nạn độc quyền trong kinh doanh được giải quyết đáng kể, đời sống xã hội được nâng lên. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của nước ta phát triển tương đối nhanh và ổn định, lương thực từ chỗ thiếu thốn cho đến nay không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn đưa nước ta trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, nhiều công trình trọng điểm thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối cho bước phát triển tiếp theo. Một thành tựu không nhỏ nữa, đó là việc xuất hiện nhiều khu công nghiệp mới, ngành nghề mới đã tưạo thêm nhiều việc làm cho lao động xã hội từ đó những tệ nạn xã hội cũng dần được kiềm chế, sự tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần nâng cao đời sống các tầng lớp dân cư, số hộ nghèo đói ở nước ta cũng được giảm đi đáng kể, nhiều hộ gia đình từ chỗ không đủ ăn, đến nay đã có đủ ăn thậm chí có những hộ gia đình từ khi có chính sách kinh tế mới đã mạnh dạn đầu tư sản xuất và đã trở thành những ông chủ giàu có. 1.2.Những khó khăn và thách thức mới. Tuy rằng nhưng năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mức sống của nhân dân được nâng lên một cách đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra cho chúng ta những khó khăn và thách thức mới. Việc vực dậy nền kinh tế từ không đến có hay từ đói nghèo lên đến đủ ăn, đủ mặc, dù giai đoạn này có khó khăn nhưng cũng thuận lợi và dễ nhìn hơn giai đoạn tiếp theo đó là từ đủ ăn, đủ mặc tiến lên ăn ngon mặc đẹp ở mức cao hay một nền kinh tế từ “có” lên đến có nhiều hơn nữa và tiến lên giàu mạnh hơn nữa. Nền kinh tế của nước ta tuy phát triển cao nhưng chưa vững chắc, nguồn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, huy động nguồng ở trong dân vào đầu tư thấp, chưa tạo được tâm lý yên tâm cho dân ta mạnh dạn đầu tư phát triển. Việc lưu thông hàng hóa và hoạt động thương mại chủ yếu tập trung ở những vùng thành thị, khu đông dân và những thành phố lớn, chú ý nhiều đến kinh doanh, khai thác hàng nhập khẩu. Thị trường nông thôn miền núi, hàng hóa sản phẩm trong nước nhất là hàng nông sản thì ít được chú ý. Quá trình mua bán diễn ra nhanh chủ yếu chạy theo lợi nhuận trước mắt đã làm cho thị trường trong nước bị phân đoạn, tách rời, động lực thúc đẩy sản xuất bằng nguồn lực nội tại trong nước của thị trường không được phát huy. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại thì bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Trong nhiều ngành kinh tế do máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, nên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước còn rất yếu, số lượng chất lượng hàng hóa làm ra còn thấp, chuyên môn hóa sản xuất chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế hơn nữa lại bị hàng nhập khẩu chèn ép, không xuất khẩu được nên nhiều doanh nghiệp không phát huy được hết năng lực sản xuất. Đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp thành thạo còn qúa ít, chưa đáp ứng được nhu cầu to lớn thực tiễn, số lượng lao động thì lớn nhưng số lương lao động được đào tạo kỹ thuật, có khả năng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của những công nghệ hiện đại trên thế giới còn chiếm tỷ lệ quá nhỏ dẫn đến tình trạng tuy có nguồn lực dồi dào nhưng không thể khai thác triệt để vì còn thiếu nhân lực có kỹ thuật, có tay nghề. Hơn nữa, thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân lao động còn thấp, do đó sức mua hàng chưa cao làm cho dung lượng thị trường trong nước còn ở mức nhỏ hẹp. 2Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa Việt Nam. 2.1 Đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. a) Đối với kinh tế Nhà nước Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một vấn đề quan trọng cần nắm được đó là kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Khi mà kinh tế Nhà nước đủ mạnh và giữ được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi cuốn được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không, thì không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản tư nhân sẽ lớn mạnh hơn và kéo nền kinh tế quốc dưân theo định hướng tư bản chủ nghĩa, thêm nữa thành phần kinh tế tư bản tư nhân đã, đang và sẽ được sự hậu thuẫn rất lớn của quốc tế. Nhất là trong bối cảnh nước ta hiện nay mọi thế lực chống đối, phản động đang tìm mọi cách cho kinh tế tư bản tư nhân của nước ta thắng thế. Do vậy, để kinh tế Nhà nước thắng thế chúng ta cần phải thực hiện một số vấn đề: Thành phần kinh tế Nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế, chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy được vai trò chủ đạo, để thực hiện và phát huy được vai trò chủ đạo thì doanh nghiệp Nhà nước cần phải được phát triển trong những lĩnh vực có ý nghĩa mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nó phải đảm bảo phát triển sản xuất hàng hóa công cộng còn những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi thì nên để cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Một bộ phận quan trọng của kinh tế Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước phải phát triển trên nguyên tưắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao và phải bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác (vì chỉ trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế xã hội rõ ràng, cụ thể mới có tiêu chuẩn tìm chọn nhân tài, có đạo đức tốt, khả năng quản lý giỏi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế) phải làm sao cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành một công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường và có thể can thiệp vào nền kinh tế bất cứ lúc nào cần thiết. Hiện nay, trong cơ cấu thành phần kinh tế khu vực doanh nghiệp Nhà nước chưa được quan tâm nhiều đến việc đầu tư đổi mới công nghệ, giải quyết vốn lưu động để phát huy năng lực sản xuất, hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu qủa, còn quá nhiều doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ kéo dài. Tuy nhiên để khắc phục tình trạng trên chúng ta cần phải xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng: nắm ngành, khâu, mặt hàng then chốt, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt. Việc sắp xếp lại có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Để kinh tế Nhà nước hoạt động có hiệu qủa hơn, phát huy được vai trò chủ đạo của mình, chúng ta cần đổi mới theo hướng sau: Thứ nhất, hoàn thành việc phân định các doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động có hiệu qủa cũng như những doanh nghiệp kinh doanh giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ số vốn lưu động cần thiết, được vay vốn ưu đãi để đổi mới thiết bị, công nghệ, kiện toàn tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý. Còn đối với những doanh nghiệp kinh doanh chuyển sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần thật sự tự chủ thì phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. Thứ hai, xác định loại doanh nghiệp được Nhà nước đầu tư 100% vốn, loại doanh nghiệp mà Nhà nước nắm số cổ phần khống chế và những doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ cần giữ cổ phần ở mức thấp và đa dạng hóa sở hữu thông qua các biện pháp: cổ phần hóa, cho thuê kinh doanh, chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng trên cơ sở khắc phục mọi trở ngại khách quan và chủ quan để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Hướng dẫn, đôn đốc việc cổ phần hóa các doanh nghiệp theo những danh mục đã xác định, đảm bảo tiến độ triển khai và kịp thời rút kinh nghiệm để tiến hành một cách vững chắc, không để xảy ra những sai lầm đáng tiếc. Đối với biện pháp tổng công ty hóa các doanh nghiệp cần được xem xét lại theo hướng thu hẹp các tổng công ty đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện trực tiếp với cạch tranh nước ngoài, song song với việc xây dựng các công ty đưa ngành, đưa sở hữu và tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. b) Đối với kinh tế hợp tác Thành phần kinh tế hợp tác ở nước ta hiện nay còn lúng túng, số hợp tác xã hoạt động kém hình thức còn nhiều. Đây là một vấn đề cần phải tháo gỡ kịp thời để bảo đảm cho kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng hướng xã hội chủ nghĩa. Để tháo gỡ vấn đề hoạt động kém của hợp tác xã chúng ta cần phải tổng kết kinh nghiệm phát triển các hợp tác xã kiểu cũ trong nông nghiệp, thương nghiệp... để rút ra những bài học kinh nghiệm, phát triển hợp tác xã trong những năm tới. Hiện nay, mô hình hợp tác xã kiểu cũ không còn phù hợp với quy luật phát triển xã hội hóa sản xuất đối với sản xuất nhỏ ở nước ta. Thực tế hơn 10 năm vừa qua đã chứng tỏ hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ là cần thiết trong các khâu dịch vụ sản xuất, các khâu đầu vào và đầu ra cho sản xuất nhỏ, bởi vậy cần phải có sự tổng kết, hướng dẫn phát triển hợp tác xã ở các khâu này và tạo điều kiện để kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. c) Đối với loại hình sản xuất nhỏ của người nông dân và người buôn bán nhỏ. Như ở trên đã nói đối với những năm đổi mới của nước ta kinh tế hộ đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế ở nước ta, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với loại hình sản xuất này Nhà nước cần có những chính sách trợ giúp cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, Nhà nước thông qua những chính sách thuế để trợ giúp cho thành phần kinh tế này, khuyến khích những người sản xuất nhỏ phát triển làm sao để kinh tế hợp tác cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. d) Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân sản xuất lớn ở nước ta còn rất nhỏ bé, lại nặng về hoạt động thương mại, dịch vụ phục vụ đời sống còn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tỷ trọng thành phần kinh tế đáng kể, một điều khó khăn của thành phần kinh tế này là tâm lý e ngại đầu tư trong nhân dân. Do vậy Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân tự do phát triển theo luật định không hạn chế tư nhân, các thể bỏ vốn đầu tư vào sản xuất những sản phẩm mà Nhà nước cho phép, nhất là Nhà nước cần có những chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư kinh doanh phát triển nông nghiệp từng bước đưa sản xuất nông nghiệp của nước ta lên sản xuất lớn, cần phải có kế hoạch nghiên cứu lại chính sách hạn điền, chuyển dịch ruộng đất theo hướng tích tụ và tập trung ruộng đất, phát triển mô hình kinh tế trang trại thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân này không tránh khỏi tính tự phát là chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Hiện nay, ở nước ta tưình trạng buôn lậu, trốn thuế, làm và tiêu thụ hàng giả còn phổ biến, bởi vậy đối với những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này Nhà nước cần phải sử dụng nhiều biện pháp để hạn chế, ngăn chặn những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực và hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa. e) Đối với thành phần kinh tế tư bản Nhà nước Đối với thành phần kinh tế này của nước ta hiện nay,số vốn đầu tư phát triển còn thấp, do vậy Nhà nước cần có những chính sách thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước, đối với các nhà tư bản nước ngoài để khuyến khích họ đầu tư Nhà nước cần tạo tâm lý yên tâm cho họ như bằng cách giữ vững ổn định chính trị để họ thấy rằng những khoản đầu tư của họ được an toàn. Nhà nước cần có những chính sách khai phá những vùng đất còn bị bỏ hoang những vùng thuộc nông thôn, miền núi như có những ưu đãi dặc biệt cho những ai đi khai phá và phát triển ở những vùng này, mặt khác cần phải xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, giao lưu buôn bán giữa các vùng này với những vùng kinh tế phát triển trong nước. 2.2 Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội. Việc đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội cũng chính là việc đẩy nhanh qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước cần phải phát triển mạnh theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu. Trong mấy năm vừa qua, tỷ lệ xuất khẩu của nước ta tăng lên đáng kể nhưng việc thúc đẩy xuất khẩu gặp một số khó khăn như công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được hình trong cơ chế tập trung bao cấp, do vậy máy móc lạc hậu mấy thế hệ, các xí nghiệp, kho tàng bến bãi quá cồng kềnh nhưng công xuất lại thấp. Hiện nay tuy đã có sự thay đổi công nghệ lạc hậu bằng những công nghệ mới, hiện đại và có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu nhưng những hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng ở dạng thô và nguyên liệu chưa qua chế biến nên tuy rằng tài nguyên rất lớn nhưng không thu được bao nhiêu, trong lĩnh vực này Nhà nước cần có biện pháp phát triển công nghiệp chế biến để làm sao cho xuất khẩu nước ta không phải là xuất khẩu hàng hóa ở dạng thô chưa qua chế biến mà là xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến, có như vậy việc xuất khẩu của nước ta mới phát triển mạnh và dần thay thế đợi nhập khẩu. Cần phải phân công lại lao động xã hội theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tăng cường và phát triển ngành phi sản xuất vật chất (ngành tế dịch vụ) coi trọng lao động trí tuệ đẩy mạnh sự nghiệp nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất, phát triển những ngành có lợi thế như nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm hải sản. 2.3 Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Thị trường là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì thị trường càng phát triển nghĩa sản xuất hàng hóa quyết định thị trường, song bên cạnh đó thị trường cũng tác động trở lại đối với sản xuất hàng hóa, có tác động thúc đẩy sản xuất hàng hóa khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô sản xuất cũng tăng lên và sự phân lớp trong sản xuất ngày càng sâu sắc hơn. Để khai thác có hiệu qủa tiềm năng về vốn, sức lao động, công nghệ,tài nguyên, thực hiện mở rộng phân công lao động xã hội cần phải từng bước hình thành đồng bộ các loại thị trường : tiền tệ, vốn, sức lao động điều này sẽ góp phần đảm bảo cho việc phân phối và sự dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của qúa trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hóa. a) Đối với thị trường hàng hóa và dịch vụ Thực hiện giao lưu hàng hóa thông suốt trong cả nước, phát triển thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin tư vấn, thiết bị kiểm tra, kiểm soát và sử lý nghiêm minh các trường hợp gian lận thương mại như : kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. Thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, một số lĩnh vực nhất định vì lợi ích chung của đất nước. Chỉnh đốn hoạt động của các tổ chức thương nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống thương nghiệp Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo khắc phục tình trạng buông lỏng thị trường nông thôn miền núi. Cần phải có phương án kết hợp cả hai phương hướng: Giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá và tăng khối lượng sản phẩm cung ứng cho thị trường. Khi đó, sẽ kết hợp được cả hai yếu tố của người sản xuất và của người tiêu dùng. b) Đối với thị trường các yếu tố sản xuất Nhà nước cần phải kìm hãm nguy cơ thất nghiệp, cần chú trọng vào việc tạo thêm chỗ làm việc và tự tạo việc làm khuyến khích các cá nhân tổ chức tổ chức tốt dịch vụ giới thiệu việc làm và đào tạo nghề nghiệp. Tổ chức quản lý hướng dẫn tốt việc thuê mướn lao động thông qua các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, kiểm tra giám sát tốt việc thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34613.doc
Tài liệu liên quan