Nước nào cũng phải sử dụng một số công cụ để thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu nào đó, như kiềm chế lạm phát chẳng hạn. Lãi suất là một công cụ như thế bên cạnh công cụ tăng giảm dự trữ bắt buộc.
Thông thường ngân hàng trung ương một nước tác động lên lãi suất bằng con đường gián tiếp, có nghĩa thông qua nghiệp vụ thị trường mở để tăng hay giảm tổng phương tiện thanh toán. Ví dụ, ngân hàng trung ương mua vào trái phiếu chính phủ, tức làm tăng tổng lượng tiền trong lưu thông thì lãi suất thị trường sẽ giảm. Cũng có thể tác động trực tiếp bằng cách tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu - là những loại lãi suất ngân hàng trung ương ấn định trong quan hệ mua bán các loại giấy tờ có giá với ngân hàng thương mại.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4065 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ chế điều hành lãi suất ở các nước phát triển và Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có trách nhiệm giữ hai lãi suất chủ chốt còn lại thông qua hoạt động cho vay và nhận tiền gửi để lãi suất cho các phương tiện tiền gửi thường xuyên đóng vai trò lãi suất sàn, còn lãi suất cho các phương tiện vay giới hạn đóng vai trò lãi suất trần, lãi suất cho vay qua đêm sẽ dao động trong biên độ này.
Như vậy, các lãi suất chủ chốt của ECB công bố đều mang tính chất mục tiêu, ECB sẽ bảo vệ lãi suất mục tiêu thông qua các công cụ chính sách tiền tệ của mình để hướng về lãi suất mục tiêu.
2.4 Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Úc (RBA)
RBA ấn định mức lãi suất tiền mặt, là lãi suất mang tính mục tiêu nhằm tác động đến lãi suất cho vay qua đêm giữa các trung gian tài chính. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, RBA sẽ tác động để lãi suất cho vay qua đêm càng tiệm cận với lãi suất mục tiêu càng tốt. Thực tế thời gian qua thì RBA luôn thành công trong thực hiện cơ chế điều hành lãi suất. Lãi suất tiền mặt hiện tại của RBA là 4,75%.
Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Nhật bản (BOJ)
Kế từ ngày 11/8/2006, BOJ công bố lãi suất cho vay cơ bản và lãi suất chiết khấu cơ bản. Các NHTM sẽ vay chiết khấu từ BOJ khi không tìm được nguồn vay nào trên thị trường liên ngân hàng có chi phí thấp hơn chi phí vay từ BOJ, do đó lãi mà BOJ công bố nghiễm nhiên trở thành giới hạn trần của lãi suất cho vay qua đêm dù BOJ không đưa ra rào cản hành chính nào cho lãi suất cho vay qua đêm. Lãi suất cho vay cơ bản hiện nay của BOJ là 0,3%.
Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK)
BOK ấn định mức lãi suất cơ bản. Hàng tháng BOK công bố mức lãi suất cơ bản dù có thay đổi hay không. Từ năm 2009 đến nay lãi suất cơ bản của BOK ổn định dao đọng quanh mức 2- 2, 75%. Mức lãi suất cơ bản hiện nay của BOK là 2,75%.
Date
Base Rate (%)
2011
13.Jan
2.75
2010
16.Nov
2.50
2010
09.Jul
2.25
2009
12.Feb
2.00
2009
09.Jan
2.50
2008
11.Dec
3.00
2008
07.Nov
4.00
2008
27.Oct
4.25
2008
09.Oct
5.00
2008
07.Aug
5.25
2008
07.Mar
5.00
Nguồn: Ngân hàng trung ương Hàn Quốc
Nhận xét chung về cơ chế điều hành lãi suất của các nước phát triển
Mỗi nước đều có tên gọi riêng cho lãi suất công bố của mình nhưng về bản chất điều hành thì không có sự khác biệt lớn giữa các nước và hầu hết đều có những đặc điểm sau đây:
Lãi suất công bố là lãi suất mục tiêu, là định hướng để thị trường tham khảo đồng thời nó cũng thể hiện ý chí của NHTW.
Sau khi công bố, NHTW sẽ sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ- thông thường là nghiệp vụ thị trường mở- để điều tiết lãi suất liên ngân hàng hướng đến lãi suất mục tiêu mà không hề dùng bất cứ biện pháp hành chính cụ thể nào.
Việc điều chỉnh lãi suất của NHTW chỉ tác động trực tiếp đến các trung gian tài chính, không tác động trực tiếp đến khu vực dân chúng và doanh nghiệp.
Định kỳ công bố lãi suất ngay cả khi không có điều chính) một cách rõ rang và công khai.
Lãi suất được ấn định bởi hội đồng/ủy ban theo nguyên tắc bỏ phiếu bình đẳng giữa các thành viên hội đồng/ủy ban và kết quả bỏ phiếu đếu được công bố công khai sau đó. Điều này khiến cho các thành viên bỏ phiếu phải có trách nhiệm hơn khi quyết định lá phiếu của mình.
CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trước năm 2010
Trong một thời gian dài, từ cuối những năm 80 cho tới năm 2000, cơ chế lãi suất của Việt Nam luôn cố gắng duy trì mức lãi suất thực dương – như một giải pháp cho vấn đề lạm phát. Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được. Thậm chí, có những thời điểm còn xuất hiện thiểu phát. Nếu chia lãi suất dương cho tỷ lệ lạm phát thì tỷ lệ này rất cao… Năm 1999 là 5.350% và năm 2000 là trên 6.000% . Lãi suất cao, trong tương quan với các nền kinh tế khu vực, là cơ hội tốt đầu tư vào trái phiếu Việt Nam trong thời kỳ này.
Cơ chế điều hành lãi suất với một mức cơ bản kèm biên độ dao động được NHNN áp dụng kể từ tháng 8-2000 thay cho cơ chế lãi suất trần. Hai chỉ tiêu này được công bố chính thức định kỳ hàng tháng và điều chỉnh kịp thời trong trường hợp cần thiết. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Đây là nền tảng cho việc xác định điểm cân bằng tỷ giá theo cách tính sức mua tương đương (PPP), từ đó, hình thành một cơ chế tự điều chỉnh.
Đến tháng 5-2001, NHNN từng bước chuyển sang áp dụng hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Từ cuối tháng 5/2002, Thống đốc đã có Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của các ngân hàng đối với khách hàng. Trong đó quy định các ngân hàng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay; NHNN công bố lãi suất cơ bản nhưng với mục đích định hướng lãi suất thị trường và chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với các ngân hàng khi ấn định lãi suất kinh doanh. Việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong những năm qua đã tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động trong việc huy động và cho vay vốn, tăng năng lực cạnh tranh, chủ động phòng ngừa rủi ro và hội nhập vào nền tài chính khu vực và quốc tế. Quyết định 546 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có sự tăng trưởng ổn định, lạm phát thấp chỉ ở mức 0,8% trong năm 2001 và chỉ tăng lên 4% trong năm 2002, tình hình thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng không có những dấu hiệu bất thường như hiện nay.
Trước sự vận động bất lợi của thị trường chứng khoán và lạm phát tăng cao ngay từ đầu năm 2008, NHNN thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử dụng đồng thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Công cụ lãi suất được phát huy tối đa, liên tục có điều chỉnh và triển khai quyết liệt. Từ giữa tháng 1-2008, dự trữ bắt buộc đã tăng thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới 12 tháng. Lãi suất tái cấp vốn cũng tăng gấp hai lần trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 6-2008. Mức lãi suất chiết khấu so với cuối năm 2007 tăng thêm 8,5%, ở mức 13%/năm kể từ 10-6-2008. Thời điểm này, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Với quy chế điều hành là cho phép tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, trần lãi suất cho vay lên tới 21%/năm. Đặc điểm đáng chú ý trong giai đoạn các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản này là lãi suất huy động ngắn hạn bằng, thậm chí cao hơn lãi suất huy động dài hạn. Điều này có nghĩa là hiện tại các ngân hàng chỉ chú trọng vào vốn ngắn hạn để đối phó với tình thế nóng trước mắt. Đối với các ngân hàng, điều dễ nhận thấy là cấu trúc tài sản nợ sẽ rủi ro hơn do qua biểu lãi suất huy động sẽ chỉ khuyến khích người dân gửi tiết kiệm ngắn hạn vì vừa được lời hơn lại vừa thanh khoản hơn. Đây là một nghịch lý bởi do đặc tính rủi ro của dòng vốn ngắn hạn rất lớn, nên trong điều kiện bình thường, các ngân hàng thường khuyến khích người dân gửi càng dài càng hay bằng mức lãi suất hấp dẫn hơn. Nếu các ngân hàng bất chấp chi phí để quyết huy động được số vốn cần thiết nhằm mua đủ lượng tín phiếu bắt buộc của NHNN thì rủi ro đối với hệ thống ngân hàng sau một tháng hay một vài tháng, khi các khoản tiền huy động có kỳ hạn ngắn trên đến hạn, ngân hàng lấy tiền đâu để hoàn trả cho khách hàng? Liệu có khả năng một cuộc chạy đua lãi suất lại tái diễn nhằm níu kéo khách hàng tiếp tục duy trì tiền gửi? Đây là một cảnh báo đáng lưu ý không chỉ đối với các NHTM mà cả NHNN trong việc bảo đảm sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Năm 2008 chứng kiến sự biến động mạnh của lãi suất với sự điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và uyển chuyển của NHNN. Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo cả hai hướng mở rộng và thắt chặt tiền tệ đã không tạo tác động đáng kể nào tới lãi suất. Trong tuần thứ ba của tháng 2-2008, NHNN bổ sung 33.000 tỉ đồng vào lưu thông nhưng các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục tăng lãi suất huy động tiền gửi. Thông báo phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc được đưa ra vào giữa tháng 2-2008 và thực hiện một tháng sau đó. Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đang đi lên, rất khó xác định ảnh hưởng của nghiệp vụ này tới lãi suất. Trong tháng 6-2008, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại tiến gần tới trần lãi suất cho vay. Hiệu lực không thật rõ ràng của các nghiệp vụ thị trường mở vào thời kỳ lạm phát gia tăng là tín hiệu sự tồn tại bẫy thanh khoản trong hệ thống tín dụng, tại thời điểm đó. Nếu đúng vậy, điều chỉnh tăng dần các công cụ lãi suất là giải pháp hợp lý và sớm mang lại kết quả bình ổn thị trường tiền tệ.
Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản.
Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN & lãi suất năm 2010
* Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN
Theo điều 12 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với các giải pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát.
Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Thời gian
Lãi suất cơ bản (%)
Lãi suất tái cấp vốn (%)
Lãi suất tái chiết khấu (%)
Lãi suất cho vay qua đêm (%)
1/1– 4/11/2010
8
8
6
8
5/11 – 12/2010
9
9
7
9
Nguồn:Ngân hàng Nhà nước
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thì trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN.
* Tình hình lãi suất năm 2010
- Đối với lãi suất huy động VND: Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND về cơ bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý II, quý III và gia tăng mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng.
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh tranh không lành mạnh, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%. Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận vì vậy đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và như vậy là sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10. Cho đến ngày 15/10/201, trên bình diện tốc độ huy động vốn đã được cải thiện rất nhiều so với năm 2009 và trước nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay vốn ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ của NHNN và sự đồng thuận của các ngân hàng, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay quanh mức 10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy động mới được thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động xoay quay mức 17 – 18%. Trước tình trạng leo thang khó có điểm dừng của lãi suất huy động dưới nhiều hình thức, NHNN đã phải trực tiếp lên tiếng yêu cầu các ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm. Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất, NHNN đã phải can thiệp bằng biện pháp hành chính. Mặt bằng lãi suất huy động trung bình một số thời điểm năm 2010 như sau:
Lãi suất huy động VND một số kỳ hạn tại một số thời điểm năm 2010 (đơn vị: %)
Ngày
1 tháng
2 tháng
3tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
18 tháng
24 tháng
36 tháng
31/12/09
10.29
10.289
10.35
10.37
10.36
10.37
10.367
10.387
10.38
26/06/10
11.19
11.28
11.38
11.468
11.47
11.51
11.29
11.32
11.32
31/12/10
13.68
13.69
13.65
13.34
13.05
13.38
12.32
12.34
12.35
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
- Đối với lãi suất ngoại tệ: Lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ trong năm 2010 tiếp tục tăng nhẹ qua tất cả các tháng (tính đến cuối tháng 12 lãi suất huy động USD tăng khoảng 0,82 – 1,36% cho các kỳ hạn so với đầu tháng 1/2010).
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Lãi suất huy động USD một số kỳ hạn tại một số thời điểm năm 2010 (đơn vị: %)
Ngày
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
18 tháng
24 tháng
36 tháng
31/12/09
2.73
2.87
3.20
3.42
3.53
3.693
3.86
3.886
3.91
26/06/10
3.4
3.61
3.90
4.04
4.15
4.21
4.39
4.33
4.39
31/12/10
3.96
4.21
4.56
4.76
4.7
4.76
4.89
4.689
4.73
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Như vậy, có thể thấy rằng, mặt bằng lãi suất huy động chịu sức ép tăng trong năm do một số nguyên nhân chính: Nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế; Chịu sức ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các chính sách năm 2009 (trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng chỉ giữ được ổn định từ tháng 3 đến tháng 8, các tháng còn lại biến động tăng cao đã ảnh hưởng đến nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ và các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN); Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD và tâm lý, kỳ vọng của người dân. Mặc dù mặt bằng lãi suất có nhiều biến động nhưng vẫn đảm bảo được lợi ích của người tiền trong bối cảnh lạm phát gia tăng vào cuối năm, vì vậy tốc động huy động vốn trong năm 2010 đã được cải thiện rõ rệt so với những năm trước.
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
- Lãi suất cho vay tuy đã có sự điều chỉnh giảm ở một số lĩnh vực, ngành nghề, nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao: Lãi suất cho vay trong năm 2010 thể hiện hai điểm nóng là trong những tháng đầu năm (trước và sau khi thực hiện lãi suất thỏa thuận theo Thông tư số 07/2010/TT-NHNN) và hai tháng cuối năm thì lãi suất cho vay ở mức khá cao (khoảng 14,5-18%).
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Các tháng giữa năm, bắt đầu từ tháng 5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, lãi suất cho vay khoảng 12% và điều hành tỷ giá ở mức hợp lý. Tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Để thực hiện nhiệm vụ này, NHNN đã tích cực hỗ trợ vốn cho các NHTM thông qua hoạt động của thị trường mở và thị trường liên ngân hàng nên mặt bằng lãi suất cho vay VND có xu hướng giảm dần (giảm khoảng 1%), một số đối tượng và ngành nghề kinh doanh có mức giảm lớn hơn (giảm 2 - 2,5%) như: các khoản vay để sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu, chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhỏ và vừa... Tuy nhiên, trước những diễn biến không thuận lợi của kinh tế vĩ mô, mặt bằng lãi suất đã tăng cao trở lại trong hai tháng cuối năm, giao động trong khoảng 13,5 – 18,5%.
Tóm lại, diễn biến của mặt bằng lãi suất huy động trong năm nổi lên một số điểm đáng chú ý như sau: (i) Diễn biến của lãi suất đi theo đúng kịch bản của năm 2009: lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm phát. (ii) Lãi suất thị trường chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt các tháng cuối năm. (iii) Không còn sự khác biệt về mức lãi suất huy động giữa các kỳ hạn, thậm chí những tháng cuối năm nghiêng hẳn về các kỳ hạn ngắn.(iv) TCTD tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp nhằm hợp lý hóa các chi phí phụ cho hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng thông qua các chương trình khuyến mại, các loại phí...
Nhận xét về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN
Nước nào cũng phải sử dụng một số công cụ để thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu nào đó, như kiềm chế lạm phát chẳng hạn. Lãi suất là một công cụ như thế bên cạnh công cụ tăng giảm dự trữ bắt buộc.
Thông thường ngân hàng trung ương một nước tác động lên lãi suất bằng con đường gián tiếp, có nghĩa thông qua nghiệp vụ thị trường mở để tăng hay giảm tổng phương tiện thanh toán. Ví dụ, ngân hàng trung ương mua vào trái phiếu chính phủ, tức làm tăng tổng lượng tiền trong lưu thông thì lãi suất thị trường sẽ giảm. Cũng có thể tác động trực tiếp bằng cách tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu - là những loại lãi suất ngân hàng trung ương ấn định trong quan hệ mua bán các loại giấy tờ có giá với ngân hàng thương mại.
Luật NHNN được Quốc hội thông qua tháng 10/1997 đến tháng 10/1998 có hiệu lực; tháng 8/2000, NHNN hoàn tất việc xây dựng cơ chế và việc công bố LSCB có hiệu lực. Lãi suất cơ bản được định nghĩa (là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh) hoàn toàn không phải là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia đúng nghĩa như thông lệ quốc tế.
Khi Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản là 8% chẳng hạn và dựa vào quy định của Bộ luật Dân sự để áp đặt “trần” lãi suất thương mại là 12%, đó là mệnh lệnh hành chính ít nhiều mang tính khiên cưỡng.
Thực tế, các “trần” như thế đều sớm muộn bị phá bỏ, hoặc là do ngân hàng thương mại lách luật (tính thêm phí) hoặc do Ngân hàng Nhà nước tự tháo gỡ (cho áp dụng lãi suất thỏa thuận).
Có thể nói Luật Ngân hàng Nhà nước hiện hành đã cung cấp các loại lãi suất thật sự mang tính “cơ bản” như các nước khác, như lãi suất tái cấp vốn hay lãi suất tái chiết khấu nhưng vì lý do nào đó, Ngân hàng Nhà nước đã khoác cho lãi suất cơ bản cái vai trò nó không có nên cứ lúng túng chuyện bỏ hay không bỏ khái niệm lãi suất cơ bản.
Một trong những nguyên nhân là do thị trường trái phiếu chính phủ nước ta chưa phát triển, giao dịch chưa nhiều nên dùng các công cụ gián tiếp để tác động lên lãi suất rất chậm, điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông khó khăn. Vì thế người ta đã “tận dụng” lãi suất cơ bản làm công cụ mang tính hành chính để điều hành cho dễ, cho nhanh bất kể quy luật thị trường.
Trong giai đoạn từ năm 2000 -2007, vai trò của LSCB rất mờ nhạt, thậm chí có những thời gian LSCB còn “hơi bị” lạc lõng. Qua đồ thị theo dõi diễn biến của LSCB và lãi suất kinh doanh của các TCTD, nhiều khi hai đồ thị này diễn biến trái chiều nhau như khi lãi suất kinh doanh của các TCTD có xu hướng tăng thì LSCB lại có xu hướng giảm. Vì vậy, nhiều lúc LSCB không có tác dụng gì tới thị trường, kể cả vai trò định hướng.
Đến năm 2008, do diễn biến của nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều điều bất ổn, lạm phát gia tăng hai con số với tốc độ cao, kinh tế bắt đầu suy giảm, thị trường tiền tệ mất ổn định. Lúc đó, NHNN mới sử dụng LSCB và quy định của Luật Dân sự để ổn định thị trường. Nhờ có thay đổi cơ chế điều hành LSCB mà thị trường tiền tệ đã ổn định trở lại.
Tuy nhiên, nó có những mặt tiêu cực, bởi dù LSCB có tác dụng trực tiếp với các TCTD, nhưng vẫn không phải là lãi suất thực, việc hình thành LSCB vẫn trên cơ sở thiếu khoa học. Và cũng nên hiểu rằng LSCB và cơ chế trần cho vay không vượt quá 150% LSCB chỉ phù hợp với lúc thị trường không ổn định. Điều nguy hiểm hơn, ở Việt Nam lại quay trở lại cơ chế trần lãi suất, cơ chế hành chính trong điều hành lãi suất mà ta đã mất rất nhiều công sức để điều chỉnh thị trường bỏ dần cơ chế hành chính sang cơ chế lãi suất thị trường. Do đó, còn duy trì cơ chế này, là đã lấy đi tính thị trường của lãi suất trên thị trường tiền tệ, là trái với các chủ trương của Bộ Chính trị và Chính phủ, trái với chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 đã được Bộ Chính trị và Thủ tướng thông qua.
Thực tế, với cơ chế trần lãi suất, cho dù LSCB tăng hay giảm thường xuyên thì cũng là cái áo quá chật và quá cứng cho thị trường, mà thị trường thì yêu cầu có một cơ chế linh hoạt, mềm dẻo, theo quan hệ cung cầu.
Quy định về lãi suất trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 đã tách lãi suất điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp và chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để Ngân hàng Nhà nước điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên quan như Luật Dân sự, Hình sự, Lao động, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước….
Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thay đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng không công bố “trước” lãi suất cơ bản để định hướng lãi suất thị trường mà thực hiện cơ chế công bố “sau” về lãi suất đã được hình thành trên thị trường của các tổ chức tín dụng để làm cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế.
Việc sử dụng cơ chế lãi suất cơ bản của NHNN Việt Nam, tuy có góp phần làm ổn định lãi suất trong giai đoạn khủng hoảng nhưng đó chỉ là giải pháp tình thế khi mà hai công cụ lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu không phát huy tác dụng của nó. Nếu tiếp tục sử dụng lãi suất cơ bản như hiện nay, thì việc điều hành lãi suất vẫn còn hành chính hóa, cản trở tiến trình tự do háo tài chính theo lộ trình đổi mới. Bởi ngay trong điều 12 Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam qui định: “ Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.” Ngoài ra, khi còn sử dụng công cụ lãi suất cơ bản, NHNN sẽ gặp khó khăn trong tập trung sức mạnh và nguồn lực để đổi mới nhằm đảm bảo hiệu lực thực sự của hai công cụ lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Kiên định theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của NHNN nhằm đưa thị trường tài chính minh bạch hơn, bình đẳng hơn và tiến gần hơn đến các thông lệ của thị trường tài chính quốc tế là một định hướng lâu dài, đúng đắn và đang trở thành hiện thực tại Việt Nam. Tuy vậy, song song với nó cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, từng bước ổn định lãi suất thị trường và kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng năm 2011: thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và thận trọng, kiểm soát tốc độ tăng tín dụng dưới 20% và tốc đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cơ chế điều hành lãi suất ở các nước phát triển & việt nam hiện nay.docx