Tiểu luận Cơ chế quản lý và điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay

PHỤ LỤC

 

 

Lời mở đầu: Trang 3

Phần I: Lãi suất và một số vấn đề cơ bản về lãi suất: Trang 4

1. Định nghĩa lãi suất

2. Công thức tính lãi suất

3. Phân loại lãi suất

4. Tác động của chính sách lãi suất đến các thực thể kinh doanh và nền kinh tế quốc dân

Phần II: Cơ chế quản lý và điều hành lãi suất ở Việt Nam: Trang 7

1. Diễn biến lãi suất huy động vốn

2. Diễn biến lãi suất cho vay

3. Chính sách lãi suất của NHNN trong những năm gần đây

4. Một số đề xuất về mặt hiệu quả của chính sách lãi suất

Phần III: Xu hướng tự do hóa lãi suất: Trang 14

1. Khái quát về quá trình đi tới tự do hóa lãi suất ở Việt Nam

2. Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam

3. Xu hướng mới trong tự do hóa lãi suất

Phần kết: Trang 21

Tài liệu tham khảo Trang 22

 

docx23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2929 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ chế quản lý và điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng là người cho vay. Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất vay mượn giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng. Theo quản lý nhà nước: Lãi suất trần/sàn: Là mức lãi suất cao nhất và thấp nhất mà ngân hàng trung ương quy định trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Lãi suất cơ bản: Là lãi suất ngân hàng trung ương quy định cho các ngân hàng thương mại làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất tái chiết khấu/tái cấp vốn: Là lãi suất ngân hàng trung ương cho ngân hàng thương mại vay hoặc chiết khấu lại các giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại. 4. Tác động của chính sách lãi suất đến các thực thể kinh doanh và nền kinh tế quốc dân Nhà nước sử dụng các chính sách lãi suất làm công cụ thực thi chính sách tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Mỗi chính sách lãi suất sẽ tạo ra 1 cách suy nghĩ, phản ứng khác trong mỗi người dân cũng như trong các ngân hàng, tổ chức tài chính và các doanh nghiệp. Người dân có thể tin tưởng tuyệt đối vào mức lãi suất mà Ngân hàng trung ương đưa ra, hay họ sẽ phán đoán mức lãi suất, tỷ lệ làm phát trong thời gian tới mà quyết định đi vay hay đi gửi tiền vào các ngân hàng dẫn tới lượng cung tiền tăng hay giảm, nguồn vốn đầu tư tăng hay giảm. Lựa chọn chính sách đúng đắn, phù hợp từng thời kỳ, Nhà nước sẽ đưa được nền kinh tế quốc gia phát triển cùng hoặc nhanh hơn tốc độ chung của thế giới. Ngược lại, chính sách không phù hợp sẽ khiến quốc gia tụt hậu so với quốc tế. Trong khuôn khổ bài tiểu luận nhóm chúng em sẽ thống kê lại từng thời kỳ, từng chính sách mà Nhà nước ta đã sử dụng, từ đó nhận ra ưu và nhược điểm, để mỗi chúng ta có thể có những phán đoán đầu tư, tiết kiệm tốt, giúp đất nước có tốc độ tăng trưởng nhanh. Hiện nay, Việt Nam đang hướng đến tự do hóa lãi suất. Tuy nhiên đó đã và sẽ tiếp tục là một quá trình dài, nhiều giai đoạn để đạt được kết quả như mong muốn. Từ cố định đến khung lãi suất, rồi lãi suất trần, đến lãi suất cơ bản kèm biên độ và hiện nay là lãi suất thỏa thuận. Mỗi chính sách lại mang đến những tác động riêng đến nền kinh tế. Nhưng tổng kết lại các chính sách lãi suất đều mang lại những tác động sau: Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát. Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi. PHẦN II. CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT HIỆN NAY Ở VIỆT NAM Điều hành lãi suất cho vay cũng như lãi suất huy động là một hoạt động vô cùng quan trọng trong lĩnh vực quản lý thị trường tài chính của Ngân hàng Nhà nước. Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước nới lỏng các rào cản mang tính hành chính để trả về cho nền kinh tế vận hành theo đúng các quy luật vốn có của nó. Và một trong những lĩnh vực thể hiện rõ cơ chế này là chính sách điều hành lãi suất huy động vốn và cho vay của NHNN. Sau đây chúng ta sẽ điểm lại một số các chính sách lãi suất huy động cũng như cho vay của ngân hàng nhà nước trong những thời điểm vừa qua: Đối với lãi suất huy động vốn Ấn định mức cố định từ ngày 01/10/1982 theo Nghị định 165/HĐBT ngày 23/9/1982; Khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là 0,35%/tháng còn mức cụ thể giao cho các NHTM tự quy định theo Quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995; Đến ngày 28/6/1997, lãi suất huy động vốn đã thực sự tuân theo quy luật thị trường khi NHNN hoàn toàn trao quyền cho các NHTM quyết định để phù hợp với thời hạn của từng loại tiền gửi, địa bàn kinh doanh của từng tổ chức tín dụng Đối với lãi suất cho vay Lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể (Từ ngày 01/10/1982 – 01/7/1987): Đặt nền tản cho quy định này là Nghị định số 165/HĐBT ngày 23/9/1982. Theo đó, Nghị định xác định hai chủ thể cho vay là Ngân hàng và Hợp tác xã (HTX) tín dụng. Đối với Ngân hàng quy định gồm (i) cho vay vốn lưu động và (ii) cho vay vốn cố định; Đối với HTX Tín dụng chia mức cho vay thành mức ngắn hạn và mức còn lại. Áp dụng mức trần và sàn đối với lãi suất cho vay (Từ ngày 01/7/1987– 01/01/1996): Vào ngày 29/6/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 99-HĐBT quy định cho vay vốn lưu động trong giới hạn 2,4% đến 6%/tháng và cho vay vốn cố định từ 2,1% đến 5,4%/tháng. Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 01/01/1996 – 05/8/2000): Với quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995, NHNN chính thức bỏ mức sàn mà chỉ áp dụng trần lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay được vận dụng bằng cơ chế lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao động trong từng thời kỳ (Từ ngày 05/8/2000 – 01/6/2002) Theo quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000, lãi suất cho vay của các NHTM không phải tuân theo mức trần. NHNN chính thức công bố định kỳ lãi suất cơ bản và biên độ giao động. NHTM sẽ tự mình đưa ra các mức lãi suất cho phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Lãi suất thỏa thuận (Từ ngày 01/6/2002 – nay) Theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 lãi suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi vay và NHTM; Cũng cần nói thêm rằng, trước đó vào ngày 29/5/2001 NHNN đã chính thức thả nổi lãi suất cho vay bằng USD cho các NHTM theo Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN. 3. Chính sách lãi suất của NHNN trong những năm gần đây. 3.1. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2008 Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền trong lưu thông, mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; tiếp theo đó phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng dẫn đến lãi suất huy động vốn tăng cao. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã ra công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm nhằm hạn chế tình trạng này. Tiếp theo đó, ngày 17/5/2008 , Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được ban hành, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ. Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Chỉ trong năm 2008 đã có 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khâu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc. Hiệu quả: Chúng ta đã tạm thời ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng, phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ. Hạn chế: Tuy nhiên, chính sách lãi suất trong thời kỳ này cũng bộc lộ một số khuyết điểm là đã đặt ra chính sách phát triển kinh tế nóng. Chính sách của Ngân hàng Nhà nước thay đổi mà không có dự lệnh, thậm chí hết sức đột ngột và đi ngược lại với định hướng trước đó. Ví dụ điển hình như đã trình bày ở trên đó là việc yêu cầu 41 tổ chức tín dụng mua 20.300 tỷ tín phiếu vào tháng 3, việc áp đặt lãi suất trần đi ngược lại xu thế tự do hóa lãi suất đã đạt được từ nhiều năm trước… Điều này đã gây ra không ít hoang mang trong doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng thương mại. Hầu hết các doanh nghiệp đều phê phán chính sách tiền tệ nói chung, cũng như chính sách lãi suất nói riêng đã “phanh” gấp quá, thắt chặt quá dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng ngắc ngoải vì không huy động được nguồn vốn bởi lãi suất quá cao. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2009 Năm 2009, chính phủ điều hành linh hoạt hơn và ít sốc hơn năm 2008, hệ thống tài chính ngân hàng đã trở lại bình thường và ổn định, doanh nghiệp tiếp cận được vốn VNĐ và ngoại tệ. Vào tháng 4/2009, NHNN đã có quyết định điều chỉnh một số mức lãi suất quan trọng trên thị trường tiền tệ bao gồm, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng đều được giảm với mức phổ biến 1%. Mặc dù mức lãi suất cơ bản được giữ nguyên ở mức 7% nhưng động thái lãi suất quan trọng trên thị trường vẫn được xem là một động thái tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm đẩy mạnh tiền ra cho sản xuất kinh doanh. Ngày 23/1/2009, Chính phủ công bố gói kích thích kinh tế lần một với lãi suất hỗ trợ 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Trong khi xu thế phục hồi nền kinh tế đã rõ rệt hơn, tình hình tiền tệ, tín dụng lại có rất nhiều biến động, đặc biệt dư nợ tín dụng tăng cao, Chính phủ đã quyết định dừng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào 31/12/2009 và tăng lãi suất cơ bản bằng VNĐ từ 7% lên 8%/năm, bắt đầu thực hiện từ 1/12/2009. Hiệu quả Đối với các doanh nghiệp: Hỗ trợ lãi suất đã làm giảm chi phí các khoản tín dụng của các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn để duy trì và mở rộng sản xuất. . Theo VCCI, sau 5 tháng kể từ khi hỗ trợ lãi suất 4%, 91% doanh nghiệp nhỏ và vừa duy trì và phát triển được hoạt động sản xuất - kinh doanh. Các khoản hỗ trợ lãi suất đầu tư trung và dài hạn giúp cho doanh nghiệp tự tin và an toàn hơn trong việc đầu tư vay vốn, cải cách cơ cấu sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh... Đối với toàn nền kinh tế: Theo báo cáo của Bộ kế hoạch đầu tư, hỗ trợ lãi suất đã làm giá thành giảm khoảng 4%. Năm 2009, lạm phát năm xấp xỉ 7% giảm hơn 1 nửa so với con số 18% năm 2008. GDP tăng 5,32% vượt chỉ tiêu đề ra đã góp phần rất lớn duy trì việc làm cho người lao động. Cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt ở mức thấp. Sức tiêu thụ trong nước dần phục hồi, thị trường chứng khoán và bất động sản cũng phát những tín hiệu tích cực. Hạn chế Thâm hụt ngân sách ở mức nguy hiểm. Năm 2009, bội chi ngân sách ước tính bằng 7% GDP. ( Thâm hụt ngân sách các năm trước đây khoảng 5%). Điều này dẫn tới nhà nước sẽ phải tăng thuế hoặc phải vay nợ thông qua phát hành trái phiếu. Cả 2 điều trên đều có ảnh hưởng không tốt tới nền kinh tế. Nguồn vốn hỗ trợ không đến đúng địa chỉ. Nhiều DN sử dụng vốn vay hỗ trợ lãi suất để trả nợ cũ (hoạt động đảo nợ). Hoạt động đảo nợ có thể diễn ra theo nhiều kiểu, nhiều cách và ngân hàng khó kiểm soát được do thiếu thông tin về hoạt động của doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp không thực sự khó khăn, có thể dùng vốn tự có để triển khai các hợp đồng và dự án, nhưng lại lợi dụng hỗ trợ lãi suất để vay vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán hay bất động sản, gây nguy cơ bong bóng tài sản. Trong khi đó, theo kết quả điều tra của Hội các Nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam, do thiếu thông tin, 80% các doanh nghiệp ko biết đến gói hỗ trợ của chính phủ. Khó khăn tiếp theo là về vấn đề thị trường tiêu thụ. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa (đặc biệt là dệt may), có đơn đặt hàng thì hỗ trợ lãi suất mới phát huy tác dụng. Tuy nhiên, gói hỗ trợ trên chưa giải quyết được vấn đề tiêu thụ. Lãi suất giảm gây áp lực lên tỷ giá. Một số doanh nghiệp nhập khẩu vay VNĐ để mua ngoại tệ, đẩy tỷ giá lên cao và gây căng thẳng về thanh khoản ngoại tệ. Một số nhà đầu cơ mua vàng tích trữ đẩy giá vàng lên cao. Tất cả những điều trên gây ra sự méo mó cho thị trường. Đối với gói hỗ trợ lãi suất thứ 2, còn có nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng việc tung thêm gói kích cầu thứ 2 ngay sau gói kích cầu đầu tiên giúp tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp, do lãi suất của nước ta là khá cao. Nếu tiếp tục tung gói kích cầu thứ 2 thì kinh tế sẽ tiếp được đà tăng trưởng, cùng với đó, sẽ giảm dần lãi suất thị trường xuống. Như vậy, phát triển sẽ bền vững hơn ở giai đoạn sau. Nếu dừng ngay ở gói kích cầu thứ nhất, thì các doanh nghiệp sẽ gặp phải khó khăn do lãi suất chưa giảm được. Đề xuất để CSLS được triển khai có hiệu quả: Với gói kích cầu 4% tài trợ lãi suất cho các khoản vay trung và dài hạn để đầu tư và phát triển sản xuất, đây là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Nhưng theo quan điểm của nhóm để CSLS thực sự là công cụ tài trợ cho các DNVN thì: Phải tăng khả năng quản lý, giám sát của ngân hàng để tránh và xử lý kịp thời những trường hợp lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước để hưởng ưu đãi từ gói kích cầu không đúng với quy định ví dụ như tình trạng đảo nợ, đầu tư vào thị trường chứng khoán gây tình trạng thị trường bong bóng. Cần thiết phải đưa các chương trình hỗ trợ này về một đầu mối và thành lập Ban chỉ đạo hỗ trợ doanh nghiệp, thông qua đó, thông tin kịp thời đến doanh nghiệp thực sự cần để hiện thực hóa các gói hỗ trợ tích cực này. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng 80% các doanh nghiệp ko biết đến các gói hỗ trợ của chính phủ. Tăng năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế bằng cách tạo thị trg tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp (xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, DN linh hoạt trong marketing, liên kết giữa các DN…) Kết hợp chặt chẽ CS ưu đãi về LS với CS tỷ giá. Về phía DN: tự thân mỗi DN phải nỗ lực để nâng cao năng lực. Đặc biệt DN phải minh bạch về tài chính, giữ tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn ở mức an toàn. DN phải thuyết phục ngân hàng về hiệu quả kinh doanh một cách rõ ràng của dự án đầu tư. PHẦN III. BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT TRONG TƯƠNG LAI VÀ XU HƯỚNG TỰ DO HÓA LÃI SUẤT Như trên, chúng ta đã phần nào hiểu được những thay đổi về lãi suất những giai đoạn trước đây và xu hướng biến động lãi suất đi vay và lãi suất cho vay mà các NHTM áp dụng trong từng thời kỳ với một mục đích khác nhau. Phần này chúng ta sẽ tiếp tục đi tìm hiểu xu hướng phát triển chung của lãi suất trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và trong tương lai. 1. Khái quát về quá trình đi tới tự  do hoá lãi suất Nhìn chung thì xu hướng chính mà thị trường hướng tới là lãi suất thả nổi và có sự điều chỉnh của nhà nước ở tầm vĩ mô lẫn vi mô. 1.1 Xét ở phương diện vĩ mô của nền kinh tế:  Trong quá trình phát triển nền kinh tế và hội nhập, VN đã có những thành công bước đầu trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới sau nhiều năm bị gián đoạn. Hiện nay, chúng ta đã có mối quan hệ với IMF, WB, ADB… và là thành viên của ASEAN từ năm 1997, gia nhập AFTA và WTO, bước đầu hòa nhập như vậy chúng ta đã có những thành công lớn, kế tiếp là chúng ta đã chuyển đổi một số hoạt động cho phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó có lĩnh vực tài chính, ngân hàng.  Như vậy tự do hóa lãi suất, chuyển dần sang thực hiện các công cụ gián tiếp điều hành chính sách lãi suất, giảm sự can thiệp và điều hành bằng các công cụ hành chính trực tiếp, từ đó sẽ trả lãi suất đúng vai trò là đòn bẩy kích thích nền kinh tế phát triển, nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế.  1.2 Xét ở phương diện vi mô của nền kinh tế:  Tự do hóa lãi suất sẽ thúc đầy cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nước và các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại VN, giúp các ngân hàng trong nước có điều kiện phát triển, đa dạng hóa nghiệp vụ, tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn. Đối với các khách hàng của ngân hàng thương mại đó là các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư sẽ chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời được quyền lựa chọn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng để giao dịch, hoạt động.  2. Quá trình tự do hóa lãi suất ở VN Trải qua những thời kỳ phát triển khác nhau với những biến động kinh  tế nhất định thì lãi suất của nước ta dần dần đã đi tới xu hướng tự do hoá, thả nổi theo thị trường Quá trình tự do hóa lãi suất ở VN có thể được tóm tắt như sau: 2.1 Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1998):     Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.  2.2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến 2006).   Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như sau:  Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992):   Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.  Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995):   Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.  Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7.2000):   Nét cơ  bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ  chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.  Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002):   Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.  Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.  Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – nay) Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định.  2.3 Lộ trình tự do hoá lãi suất Năm 2006, ngành ngân hàng đã có bước tiến dài về môi trường pháp lý. Cơ chế tín dụng, cơ chế  bảo đảm tiền vay được hoàn thiện theo hướng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp vay vốn. Mặt khác, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn cho toàn hệ thống. Chính sách tiền tệ được điều hành một cách thận trọng, linh hoạt và phù hợp với diễn biến thực tế. Chính vì vậy việc cho áp dụng lãi suất thỏa thuận, bước đột phá thực hiện tự do hóa lãi suất, lãi suất trên thị trường vẫn tương đối ổn định  Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới thời điểm tháng 6/2008, mức lãi suất đang là 14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12% trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng này nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền trong nước. Có thể  nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua năm bước chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định:  Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ  quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ  mô, kiềm chế được lạm phát.  Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về  lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi.  Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần  đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự  hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế  giới. Quyết định 546/2002 QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng, đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế đối với hoạt động tín dụng và lãi suất cơ bản công bố của Ngân hàng Nhà nước dần dần sẽ mang tính chất tham khảo đối với các tổ chức tín dụng trong việc xác định lãi suất từng thời kỳ. Như vậy quá trình đổi mới cơ chế lãi suất từ kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất sang cơ chế lãi suất thỏa thuận thực chất là dần dần đã tự do hóa lã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCơ chế quản lý và điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay.docx
Tài liệu liên quan