MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: 2
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY 2
1.1 Cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. 2
1.2 Những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập. 3
PHẦN 2: 7
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT-MỸ 7
2.1. Sự ra đời của hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ. 7
2.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi ký kết hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ. 7
2.2.1. Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trước HĐTM Việt-Mỹ 7
2.2.2. Những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam 9
PHẦN 3: 11
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI RA NHẬP ASEAN – AFTA 11
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA. 11
3.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập AFTA. 12
3.2.1. Thách thức. 12
3.2.2. Cơ hội. 14
PHẦN 4: 16
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI RA NHẬP WTO 16
4.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO ) 16
4.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập WTO. 17
4.2.1. Cơ hội khi gia nhập WTO. 17
4.2.2. Thách thức của việc gia nhập WTO. 18
KẾT LUẬN 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5678 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của các thể chế kinh tế quốc tế, các cam kết mà Việt Nam và các quốc gia dã thoả thuận . vv... Có thể nói nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được điều này. Vì vậy trên thực tế đã có doanh nghiệp tuỳ tiện phá bỏ hợp đồng gây mất lòng tin với khách hàng quốc tế, làm tâm lý no ngại khi làm ăn ở Việt Nam. Cũng do mối phát triển trong giao dịch thnfh toán quốc tế chúng ta chưa áp dụng hoặc chưa quan tâm. Trong xu thế gia tăng mạnh mẽ toàn cầu hoá thị trường tài chính thì đây là hạn chế không nhỏ cho phép ta tham gia có hiệu quả vào thị trường tài chính quôc tế.
Vấn đề cải cách chính sách.
Có thể nói rằng cho đến nay tuy chúng ta dã có rất nhiều cố gắng trong công tác soạn thảo xây dưngj ban hành pháp luật, nhưng hẹe thống luật lệ, chính sách của Việt Nam liên quan đến hội nhập quốc tế vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập so với các quy chuẩn quốc tế. Trong lĩnh vực thương mại hệ thống các quy định về thuế quan và phi thuế quan của ta quá phưc tạp lại hay điều chỉnh bổ sung thậm chí thay đổi làm cho các đối tác giảm nhiệt tình kinh doanh. Chúng ta vẫn còn áp dụng nhiều quy định riêng trong hợp tác kinh tế quốc tế và ngược lại cũng còn không ít kẽ hở, về pháp luật, về các chính sác, quy định để phía các đối tác gây thiệt hại cho phía Việt Nam cũng như thất thoát nguồn thu cho nhà nước. Trong lĩnh vực liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng có nhiều ý kién phàn nàn về hệ thống luật, gồm ba điểm chính.
- Việc áp dụng luật ở nhiều nơi, nhiều lúc còn tuỳ tiện. Các luật rất nhiều, song vẫn không đủ không đồng bộ, lại vênh nhau. Các ngôn từ trong luật không rõ ràng gây ra kẽ hở và khó khăn cho người điều hành.
- Việc hiểu biết về pháp luật, tôn trọng pháp luật còn nhiều bất cập. Thiếu tổ chức công khai vẫn bàn luận và phán quyết của toà án hay quyết định của trọng tài dã dẫn đến những hiện tượng thiếu lành mạnh. Trong vận dụng và thực thi pháp luật.
- Thiếu vắng một hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp có hiệu quả công bằng. Các toà án kinh tế Việt Nam được thành lập để giải quyết các tranh chấp kinh tế, nhưng lại không có nhiều uy tín trên thế giới. Mặt khác các luật sư và doanh nghiệp Việt Nam thiếu sự hợp tác trong thi hành pháp luật. Sự hạn chế trong hệ thống luật như trên rõ ràng rất khó khăn cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập. Hội nhập vào các tổ chức kinh tế đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ các quy chế chung mà thực tế nhiều quy định của ta không phù hợp thậm chí trái ngược, cho nên các hoạt động trong thực tiễn thường bị ách tắc, làm chậm tiến độ theo hợp đồng. Vấn đề đặt ra rõ ràng phải kiểm tra, hiện đại hoá hệ thống luật lệ cho phù hợp với việc xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Hội nhập chủ động sé là phương châm hợp lý bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với công đồng thế giới mà không bị hoà tan, tức vẫn bảo đảm được bản sắc, giữ vững nền độc lập. Để chủ động hội nhập đỏi hỏi chúng ta phải có kế hoạch dào tạo bồi dưỡng cán bộ những kiến thưc nghiệp vụ quản lý, phương tiện giao tiếp... Phải tiến hành tổ chức nghiên cứu thường xuyên và chuyên sâu về tình hình quốc tế, về các tổ chức kinh doanh quốc tế nói chung và đặc biệt về các đối tượng làm ăn chính. Nhiều thua thiệt của chúng ta trong giao lưu, hội nhập do chúng ta thiếu thông tin. Và cũng để chủ động hội nhập và hội nhập có hiệu quả cần kết hợp tốt giữa sức mạnh bên trong với bên ngoài. Tránh lệ thuộc quá lớn vào bền ngoài làm tăng tình dễ bị tổn thương của nền kinh tế. Phát huy đông sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Vấn đề then chốt để hội nhập có hiệu quả cần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế dân tộc. Muốn vậy phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
PHẦN 2:
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT-MỸ
2.1. Sự ra đời của hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ.
Chúng ta biết rằng đối với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ thì một sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi trong lĩnh vực kinh tế thương mại sẽ giúp hai nước mau chóng khép lại quá khứ ,nhìn về tương lai vì lợi ích chung của hai dân tộc.Tuy nhiên, nếu trong quan hệ ngoại giao đã đạt được những thành tích nhất định như bãi bỏ lệnh cấm vận vào năm 1994, bình thường hoá quan hệ hai nước vào năm 1995,thành lập đại sứ quán hai nước vào năm 1997, thì trong quan hệ kinh tế bao gồm thương mại và đầu tư lại phát triển khá chậm chạp, chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước.Chính vì thế HĐTM song phương Việt-Mỹ được ký kết ngày 14/7/2000 đánh dâú một bước tiến mới trong quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ.
Hai bên đã cam kết thực hiện các nguyên tắc mậu dịch phù hợp với các thông lệ của WTO, bao gồm thực hiện quy chế tối hậu quốc và không phân biệt đối xử,những nỗ lực chung về thương mại, mở rộng và thúc đẩy thương mại,bằng việc cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các biện pháp ngăn chặn phi thuế quan như quota(hạn nghạch),đảm bảo quyền buôn bán cho các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước .Ngoài ra còn có những can kết về quyền sở hữu trí tuệ phát triển quan hệ đầu tư.
2.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi ký kết hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ.
2.2.1. Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trước HĐTM Việt-Mỹ
1/ HĐTM Việt-Mỹ mở cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ một thị trường mạnh nhất thế giới với hơn 245 triệu người.Hàng hoá của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn do mức thuế suất chỉ còn trên 3%,trong khi trước kia phải từ 40% đến 80%.Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ xuất khẩu sang Mỹ những mặt hàng mà chúng ta có lợi thế như dầu thô, dệt may, giày dép, mặt hàng nông hải sản.
Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ là rất lớn.Năm 1999 giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ đạt 601 triệu USD/năm,thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực mà Mỹ đã áp đặt quy chế quan hệ bình thườngvà là thành viên của WTO.Kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ bằng 1/35 của Malaixia và bằng 1/23 của Thái Lan (do một lượng hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải qua nước thứ ba, chủ yếu là Singapore nên số liệu của Việt Nam và Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam và Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ là khá lớn.Khi hiệp định thương mại được thực hiện, do giảm hàng hoá qua trung gian nên xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ có cơ hội tăng mạnh hơn.Có ý kiến cho rằng năm 1999 ”Giá trị kim nghạch nhập khẩu của Mỹ là 1227 tỷ USD, do đó dù Việt Nam có sang Mỹ tới 1 tỷ USD thì cũng như muối bỏ bể ”). Còn nếu xét về cơ cấu xuất nhập khẩu sang thị trường Mỹ trong tổng xuất nhập khẩu cũng rất nhỏ bé.Trong suốt giai đoạn 1994-1999, xuất khẩu sang thị trường chỉ đạt 2,4% tổng giá trị kim nghạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó tỉ lệ này của Thái Lan là 17,4% và 10,3% và Malaixia là 19,4% và 11,9% (So với các thị trường có mức thu nhập và tiêu dùnh bình quân đầu người tương đương, hiện nay thị trường Mỹ chỉ chiếm 4,8% giá trị kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam so với các nước Châu Âu là 24% và Nhật Bản là 28,7%).
2/ HĐTM Việt-Mỹ sẽ tạo cơ hội làm ăn mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc liên doanh với các doanh nghiệp Việt Nam qua đó sẽ tăng khả năng thành công cũng như học hỏi được cách quản lý của các nhà kinh doanh hàng đầu thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam.Đồng thời nó cũng mở ra cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phải nổ lực không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, học tập một cách làm ăn bài bản, phù hợp với luật lệ kinh doanh quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trinh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
3/ HĐTM Việt-Mỹ giúp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu một lượng hàng lớn vào Mỹ do đó các doanh nghiệp sẽ giải quyết được vấn đề việc làm cho công nhân của mình đồng thời cũng tạo nhiều công ăn việc làm mới góp phần giải quyết vấn đề dân số và việc làm ở Việt Nam.
2.2.2. Những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam
1/Trình độ phát triển kinh tế giữa hai nước rất chênh lệch, lại có những điểm rất khác nhau về thể chế chính trị xã hội, về quan niệm ,về tập quán ,sở thích, thị hiếu người tiêu dùng.Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không tính đến các nhân tố này thì có thể dẫn đến tư tưởng nôn nóng ,sốt ruột hoặc chủ quan hay bi quan trong khi giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quá trình làm ăn với Mỹ do đó rất dẫn đến thất bại.
2/ Hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều thiếu sót lại chưa đồng bộ và có nhiều điểm không phù hợp với thông lệ quốc tế.Mỹ là một nước có hệ thống pháp luật hết sức chặt chẽ với tư cách là một siêu cường về kinh tế và chính trị Mỹ đã tự đặt ra những điều luật của riêng mình do đó việc mới tiếp xúc với một thị trường mới mẻ sẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam không khỏi bỡ ngỡ rất khó tránh khỏi những sai lầm bởi ở Mỹ “kiện tụng cũng được coi như một nghề” mà bằng chứng chính là việc xuất khẩu cá Tra cá Basa của các doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ.
3/ Sau một thời gian ngắn(3-7 năm), khi HĐTM có hiệu lực nhiều hàng hoá của Mỹ sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam với việc bãi bỏ hạn ngạch và giảm thuế sẽ đặt các doanh nghiệp Việt Nam ở trong một điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn trước đây.Đồng thời các lĩnh vực hoạt động tài chính ,ngân hàng bảo hiểm ,viễn thông, pháp lý, giáo dục,y tế sẽ chiếm lĩnh thị trường Việt Nam làm cho các doanh nghiệp kinh doanh trong những ngành này của Việt Nam sẽ gặp phải những đối thủ cạnh tranh hết sức gay gắt vì những lợi thế hơn hẳn của họ .Nếu chúng ta không có những chuẩn bị ngay từ bây giờ thì người tiêu dùng Việt Nam chỉ hướng tới những dịch vụ tiện lợi hơn của các nhà đầu tư Mỹ.
4/ Các doanh nghiệp Việt Nam, những người trực tiếp làm ăn với Mỹ lại chưa thông hiểu luật lệ cung cách kinh doanh của người Mỹ.Chính điều này chẳng những có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi vì những lý do không đáng có. Bên cạnh đó ,với trình độ quản lý còn yếu kém, lại chưa có kinh nghiệm làm ăn theo cơ chế thị trường cùng với trình độ công nghệ còn lạc hậu, trình độ chuyên môn của người lao động còn chưa cao.Tất cả những điều đó làm cho sản phẩm của chúng ta còn kém về chất lượng, xấu về hình thức khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước Nam Mỹ, từ Trung Quốc, từ các nước Nics, các nước ASEAN. Đây chính là thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi HĐTM có hiệu lực.
PHẦN 3:
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI RA NHẬP ASEAN – AFTA
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA.
ASEAN (Asscociation of Southeast Asian Nation), hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập từ năm 1976 với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị, khoa học, xã hội. Đến nay, ASEAN đã phát triển lớn mạnh với 10 thành: Brunei, Indonesia, Malaysia, Phillipin, Singapore, Thái lan, Việt Nam, Campuchia, Lào và Mianmar. Tuy vậy là một khu vực kinh tế phát triển vào loại năng động nhất thế giới, vấn đề hợp tác kinh tế trong khu vực lại được ra đời khá muộn, năm 1992, 25 năm sau khi thành lập ASEAN.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng với kế hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực ưu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được các mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu vực mậu dich tự do AFTA hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức mới.Mục tiêu của AFTA là:
Tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển của các thoả thuận thương mại khu vực (Regional trade arrangement - RTA) trên thế giới.
3.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập AFTA.
3.2.1. Thách thức.
Qua phân tích cụ thể những lợi thế so sánh của Việt Nam và các nước, chúng ta có thể thấy được những khó khăn của Việt Nam khi tham gia vào tổ chức liên kết kinh tế khu vực. Trước hết đó là sự khác biệt về thể chế và cơ chế quản lý kinh tế. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các quan hệ thị trường trong nền kinh tế Việt Nam thực sự chưa trưởng thành (cái quán tính của cung cách quan liêu, bao cấp trong quản lý còn nặng nề). Điều này thể hiện mức độ sẵn sàng đón nhận tiến trình AFTA chưa cao xét về mặt cơ chế quản lý.
Quan trọng hơn nữa khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN (về thu nhập bình quân trên đầu người, dự trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ... ) cho thấy sự cách biệt quá lớn bất lợi cho Việt Nam cũng là mối lo ngại cho quá trình hội nhập này. Trình độ công nghệ sản xuất hiện nay ở ta, đặc biệt trong các ngành chủ chốt như công nghiệp chế tạo, chế biến, còn ở mức yếu kém thì liệu có đủ sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường hay chỉ là nơi tiêu thụ hàng hoá của các nước ASEAN thậm chí nhiều doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp theo đó tăng...
Do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và phần lớn các nước ASEAN tương đối giống nhau, vì vậy có thể gây ra sự cạnh tranh nội bộ khu vực trong việc thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường và công nghệ (ở mức độ khác nhau). Ngoài ra cò phải kể đến sự cạnh tranh của cả khối với Trung Quốc trong cả thương mại và đầu tư nước ngoài.
Một trong những khó khăn và có lẽ đây là khó khăn lớn nhất mà Việt Nam sẽ phải đương đầu trong quá trình hội nhập là nhân tố về con người do trình độ, kể cả cán bộ quản lý kinh tế và các doanh nhân còn chưa đáp ứng được với nhu cầu đặt ra của tình hình mới.
Nếu chỉ xét riêng về thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường cạnh tranh thì phần lớn các doanh nghiệp còn rất non trẻ, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm. Phần lớn các doanh nghiệp đều mới bước vào thương trường nên có nhiều hạn chế, thể hiện ở các mặt như: kinh doanh trên diện mặt hàng rộng nhưng thiếu chuyên ngành; mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; các doanh nghiệp còn chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng khối các khách hàng tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường và khách hàng; Thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức như thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm quảng cáo, tư vấn về thị trường, môi trường đầu tư, tìm đối tác kinh doanh... Ngoài ra, tác động không thuận lợi đến các doanh nghiệp còn có những vấn đề về môi trường vĩ mô thiếu ổn định với một hệ thống các thủ tục hành chính phức tạp và không rõ ràng. Thủ tục lập doanh nghiệp, lập chi nhánh, đại diện, mạng lưới kinh doanh trong tỉnh, ngoài tỉnh, ngoài nước nói chung có tác dụng kìm hãm hơn là khuyến khích kinh doanh.
Tóm lại, có thể thật sự hội nhập được với khu vực, chúng ta phải vượt lên những trì trệ của chính mình, đạt được sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội đi kèm với sự tăng trưởng về kinh tế. Sự tăng trưởng cùng nhịp độ với các nước trong khu vực sẽ là cơ sở đảm bảo về lâu dài để có sự liên kết giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN được bền chặt trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Bên cạnh những khó khăn rất lớn, chúng ta cũng có những thuận lợi nhất định khi hội nhập với ASEAN. Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng đã có truyền thống giao lưu kinh tế, văn hoá và tương đối hiểu biết lẫn nhau. Bên cạnh đó, đường lối đổi mới của Việt Nam đang tiến tới để hội nhập trong sự thống nhất của khu vực. Liên kết kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN là xu thế tất yếu của mỗi nước trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu, bởi lẽ nó phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia.
3.2.2. Cơ hội.
Tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có thể thu được một số cơ hội và thuận lợi sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là sự kiện đánh dấu bước phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Có Việt Nam trong ASEAN sẽ góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất mới trong ASEAN, từ đó tạo ra nhiều lợi ích cho Việt Nam và các nước thành viên. Trọng tâm của hợp tác kinh tế trong ASEAN những năm gần đây là hợp tác phát triển thương mại, trong đó cốt lõi là việc hình thành AFTA, thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT, hình thành nên một thị trường thống nhất cho mọi nước thành viên. Việc tham gia vào chương trình này là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi các nước cắt giảm dần thuế thì hàng hoá Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn để xâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Thứ hai, Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là từ các nước thuộc ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập khẩu như máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ giảm thuế nhập khẩu tới 5%. Như vậy, khi đó luồng hàng nhập khẩu sẽ được mở rộng nhanh chóng. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu vực. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung hàng hoá của mình trên thị trường và tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới .
Thứ ba, tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu.
Thứ tư, có điều kiện để thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước thừa vốn và đang có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan...
Thứ năm, có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực để khai thác khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng
Thứ sáu, tận dụng ưu thế về lao động rẻ và có hàm lượng chất xám cao để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước trong khu vực.
Thứ bảy, một trong những quy định về sản phẩm được hưởng quy chế Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GPS) của Mỹ là "trị giá nguyên liệu cho phép nhập để sản xuất hàng hoá đó phải dưới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan Mỹ" và "giá trị một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của một hiệp hội kinh tế, liên minh thuế quan, khu mậu dịch tự do thì được coi là sản phẩm của một nước". Vì vậy, việc Việt Nam tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vẫn có thể nhập nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất và sản phẩm đó vẫn được GPS.
PHẦN 4:
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI RA NHẬP WTO
4.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO )
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization - WTO) được thành lập ngày 15/4/1994 tại Ma rốc, xuất phát từ tổ chức Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. Tính đến thời điểm 31/12/2005, WTO có 148 nước, lãnh thổ thành viên. WTO là tổ chức thế giới có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Về chức năng, WTO có hai chức năng chính vừa là diễn đàn đàm phán về thương mại và đồng thời là tổ chức giải quyết các tranh chấp về thương mại; về đàm phán, phần lớn các quyết định của WTO đều dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. Mỗi thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau; về giải quyết tranh chấp, thông qua hội đồng dàn xếp tranh chấp, WTO có quyền ban hành các biện pháp trừng phạt đối với các thành viên không tuân theo luật lệ; về cơ cấu tổ chức, cơ quan có quyền lực cao nhất là Hội nghị bộ trưởng, họp ít nhất hai năm một lần. Giữa hai kỳ hội nghị là Đại hội đồng bao gồm đại diện có thẩm quyền của tất cả các thành viên. Dưới đó là các Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ, Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; về các nguyên tắc: Không phân biệt đối xử, không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn trong nước; Đãi ngộ tối huệ quốc, các đãi ngộ thương mại của một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO; Minh bạch, các điều lệ và hạn định ngoại thương phải được công bố.
Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO vào tháng 1-1995 và được công nhận là quan sát viên của tổ chức này. Tháng 7-1998, Việt Nam bắt đầu tiến hành phiên đàm phán gia nhập WTO đầu tiên. Sau hơn 10 năm, Việt Nam đã trải qua 11 phiên đàm phán đa phương (trong đó có một phiên trù bị) và hàng trăm cuộc đàm phán song phương với sự tham gia của tất cả các bộ, ngành. Việc nước ta gia nhập WTO sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình kinh tế, xã hội nói chung và cuộc sống của mỗi người nông dân nói riêng. Nước ta phấn đấu sớm gia nhập WTO xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế của chính chúng ta, chứ không phải từ sức ép bên ngoài.
4.2. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập WTO.
4.2.1. Cơ hội khi gia nhập WTO.
1/Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu.
Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trườngquốc tế.
Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam.
2/Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
3/Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.
4/ Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NHOM 5_Triet Copy.doc