Tiểu luận Cơ hội và thách thức của nông dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

- Nông dân với vai trò là chủ thể trong sản xuất nông nghiệp cần phải chủ động trong hội nhập mới có được thành công. Trước hết, nông dân phải biết điểm mạnh, điểm yếu của mình trong điều kiện cụ thể ở từng địa phương để từ đó, phát huy mặt mạnh, khắc phục yếu kém, tạo nên những lợi thế so sánh, sản xuất ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, với khối lượng ngày càng lớn và chất lượng ổn định.

- Nông dân cần phải biết rõ sản phẩm của mình sẽ bán ở đâu, với phương thức thế nào, giá cả bao nhiêu, yêu cầu chất lượng sản phẩm ra sao? Đây là vấn đề rất quan trọng, thiết thực để nông dân chủ động trong hoạch định và tổ chức sản xuất.

- Người nông dân thời hội nhập cần phải có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành tốt. Có kiến thức sẽ giúp cho việc nắm bắt thông tin thị trường, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chọn giống cây, con phù hợp và áp dụng tốt tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và bảo quản, chế biến,

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6336 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ hội và thách thức của nông dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong gần 30 năm qua, nông nghiệp, nông dân, nông thôn lại đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên. Những năm qua, ngành nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nông dân được cải thiện, công bằng hơn trong tiếp cận các cơ hội phát triển. Song, cũng như các nước thực hiện quá trình công nghiệp hóa, ở nước ta, quá trình này thường đi kèm những thay đổi không nhỏ về các mặt kinh tế - xã hội; và nông nghiệp, nông dân, nông thôn thường bị thiệt thòi, chịu nhiều hy sinh. Thu nhập của người nông dân tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với khu vực thành thị, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn tuy đã thoát khỏi diện nghèo đói, nhưng thực tế thu nhập chỉ cao hơn mức chuẩn nghèo đói không đáng kể. Người nông dân không có nhiều cơ hội tiếp cận với các thành tựu của phát triển, các dịch vụ cơ bản như vệ sinh, môi trường, y tế, giáo dục, ... cũng chưa được cung cấp đầy đủ. Việt Nam có gần 70% dân số sống nhờ nông nghiệp, 69% lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, khi gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam tuy có một số thuận lợi nhưng cũng đối đầu với nhiều khó khăn. Và điều này ảnh hưởng không ít đến đời sống nông dân. Vậy trong thời kỳ hội nhập, người nông dân Việt Nam gặp những cơ hội và thách thức gì? Để tìm hiểu về vấn đề này, chúng em chọn đề tài “Cơ hội và thách thức của nông dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” làm đề tài tiểu luận của nhóm. 1.2 Mục đích nghiên cứu Biết được những cơ hội và thách thức mà người nông dân Việt Nam gặp phải khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Đề ra giải pháp tháo gỡ những khó khăn cho nông dân. 2. NỘI DUNG Sơ lược về Nông dân Việt Nam Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội. Người nông dân là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Để có được nền nông nghiệp hiện đại, phải có lực lượng lao động tại nông thôn có kiến thức, kỹ năng phù hợp với yêu cầu phát triển nông thôn mới. Người nông dân nước ta cần cù, chịu khó, sẵn sàng tiếp thu kiến thức mới để cải tạo thiên nhiên, giúp ích cho hoạt động nông nghiệp của mình. Tuy nhiên, một trong những nhược điểm của nông dân trong giai đoạn hiện nay là làm việc manh mún. Bên cạnh đó, do tập quán làm việc theo cảm tính dẫn đến người nông dân không có định hướng phát triển hoạt động nông nghiệp rõ ràng nếu như không có sự tư vấn chi tiết của các cơ quan chuyên môn, của những người có kinh nghiệm. Đã có hiện tượng người nông dân không có hứng thú sản xuất trên mảnh đất của mình do diện tích đất canh tác nhỏ, năng suất lao động thấp, hoặc sự đầu tư của họ không đúng hướng, dẫn đến việc khủng hoảng thừa như giai đoạn vừa qua đối với cây điều, cây mía, thậm chí đối với cả cây cà phê. Với thời gian nông nhàn lớn làm cho người nông dân có xu hướng thoát ly khỏi địa bàn nông thôn lên thành thị kiếm việc, càng làm cho hoạt động canh tác trên mảnh đất của họ kém hiệu quả. Theo Hội Nông dân Việt Nam, nông dân nước ta hiện nay chiếm 73% dân số, số lao động nông nghiệp chiếm 55,7% tổng số lao động xã hội. Sau hơn 20 năm đổi mới, đời sống của nông dân được nâng lên, đã có 96,8% số xã có điện lưới, 96,9% số xã có đường ôtô đến trung tâm; 100% số xã có trường tiểu học, 100% số xã có điện thoại, 99,45% số xã có trạm y tế, 70% cư dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, ... Hội nhập sẽ mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với tất cả các ngành, các lĩnh vực và buộc tư duy phải thay đổi để thích ứng, để cạnh tranh, để tồn tại. Sức ép đổi mới đang đè nặng lên tất cả các lĩnh vực nhưng có lẽ nặng nề hơn cả vẫn là với người nông dân Việt Nam. Cơ hội và thách thức của nông dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập 2.2.1 Cơ hội - Khi hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế, tham gia vào tất cả các tổ chức kinh tế, thương mại lớn của thế giới và khu vực cơ hội cũng sẽ càng mở ra nhiều đối với người nông dân Việt Nam. Người nông dân sẽ được tiếp cận thị trường nhiều hơn, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới một cách nhanh nhạy và đầy đủ bằng các phương tiện truyền thông, công nghệ thông tin. Việc gia nhập WTO mang đến cho nông nghiệp Việt Nam triển vọng về một sân chơi khổng lồ, với hơn 5 tỉ người tiêu thụ, chiếm 95% GDP, 95% giá trị thương mại thế giới và một kim ngạch nhập khẩu trị giá 635 tỉ đô la Mỹ/năm. Trong những năm gần đây, mức tăng trưởng xuất khẩu của nông nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4,3% hàng năm, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, đặc biệt nhiều mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản của chúng ta (cà phê, gạo, chè, hạt tiêu đen, cao su, điều, gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, cá tra, cá basa, tôm, …) đã tiếp cận và khẳng định được vị thế của mình tại một số thị trường khó tính như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, ... Hàng năm đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước hàng tỷ USD và tạo thu nhập cho người nông dân, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, tạo bộ mặt mới cho kinh tế địa phương. - Lợi ích từ việc hội nhập đem đến cho người nông dân Việt Nam khi xuất khẩu hàng nông sản, thuỷ sản ra thế giới là sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ. Khi tham gia và thực hiện các cam kết của các tổ chức người nông dân cũng sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả. - Người nông dân nước ta sẽ được lợi từ việc tiếp cận, chuyển đổi các tiến bộ công nghệ, phương tiện sản xuất, chế biến hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Các hàng công nghệ hiện đại phục vụ trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ được nhập khẩu nhiều vào Việt Nam, đem đến cho người nông dân sự lựa chọn tốt nhất. 2.2.2 Thách thức * Đối với sản phẩm xuất khẩu - Thách thức lớn nhất trong cơ chế thị trường là hiện tượng “mạnh được yếu thua”. Quá trình toàn cầu hoá có những luật chơi không công bằng, bất lợi cho nông nghiệp của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Và điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của nông dân nước ta cũng như nông dân các nước đang phát triển và các nước nghèo trên thế giới. - Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang dần xóa bỏ những hàng rào thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều kiện cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển, đặc biệt là ở các nước giàu mạnh. Thương trường Mỹ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống luật pháp và các rào cản thương mại cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế chống phá giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước của các nước phát triển trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa Việt Nam vào thị trường Mỹ đã cho thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi tiếp cận thị trường Mỹ. Nguy cơ Việt Nam sẽ tiếp tục phải đương đầu với các vụ kiện bán phá giá là hoàn toàn có thực, nhất là khi Việt Nam vẫn đang bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Không chỉ là các mặt hàng thủy sản mà nông dân còn phải đương đầu với những vụ kiện bán phá giá về các mặt hàng nông sản như lúa gạo, điều, … nông dân sẽ là người chịu nhiều thiệt thòi. - Sự phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam phụ thuộc vào biến động của kinh tế và thị trường nông sản thế giới, nông nghiệp Việt Nam còn nhiều yếu kém nhưng phải đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng theo luật chơi chung của WTO. Vì thế nên việc hội nhập WTO sẽ khiến nông dân Việt Nam bị nhiều thiệt thòi vì nhà nước không thể trợ giá cho bà con nông dân. Bốn luật chơi mà nông dân Việt Nam phải đối diện khi gia nhập WTO: + Luật chơi về an toàn thực phẩm: suốt trong quá trình sản xuất, trái cây và rau quả Việt Nam phải có Chứng chỉ “nông nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt” (Good Agricultural Practices, GAP) để chứng minh mặt hàng này luôn an toàn vệ sinh. + Luật chơi về chất lượng: mặt hàng nông sản Việt Nam phải cần rất nhiều chứng chỉ, chẳng hạn như chứng chỉ xác nhận nguồn gốc giống (chứng chỉ xác nhận giống không thuộc loại cây biến đổi gen, GMO), chứng chỉ báo cáo chất lượng (hàm lượng protein, chống oxy hóa, vitamine, đồng bộ về giống, độ chín, kích cỡ và màu sắc), ... để chứng minh mặt hàng có chất lượng cao và bổ dưỡng. + Luật chơi về số lượng: lượng hàng hóa lưu hành trong thị trường nông sản thế giới ngày nay vừa lớn về số (trăm tấn, ngàn tấn, vạn tấn), vừa đồng bộ (giống, kích cỡ, màu sắc, bao bì) và chính xác về thời gian giao hàng (đúng ngày quy định hoặc thứ Tư mỗi tuần, tuần đầu mỗi tháng, ...). + Luật chơi về giá cả: để yểm trợ cho cạnh tranh, giá cả trở nên một yếu tố quyết định. Đây là một thứ “luật bất thành văn” của bất cứ một cơ sở sản xuất hay một quốc gia nào trên thế giới muốn tham dự cuộc chơi. * Đối với sản phẩm nội địa - Hiện nay giá thành sản xuất của phần lớn các nông sản Việt Nam đều đắt hơn hàng nước ngoài mà chất lượng lại không bảo đảm, ngoại trừ một số mặt hàng thủy sản như cá tra, cá ba sa. Giá thành sản xuất hàng của chúng ta cao vì tốn nhiều chi phí, trả nhiều lệ phí, công gián tiếp. Thí dụ, mặt hàng nông sản cơ bản nhất của Việt Nam là lúa gạo. Thái Lan trồng lúa mùa địa phương, tuy năng suất chỉ đạt dưới 2,5 tấn/ha nhưng chất lượng rất ngon, vì tận dụng điều kiện thiên nhiên nên không tốn tiền bơm nước, tốn ít phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, diệt cỏ. Trái lại, nông dân Việt Nam trồng lúa cao sản ngắn ngày năng suất 4 - 6 tấn/ha nhưng phải làm trong điều kiện thiên nhiên không thuận lợi nên rất tốn tiền: bơm nước, bón nhiều phân đạm, phun thuốc trừ sâu bệnh, làm cỏ, phòng trừ chuột. Sản xuất các loại nông sản khác cũng tốn kém tương tự. Đến nay tuy các nhà khoa học đã nghiên cứu nhiều biện pháp làm giảm giá thành sản xuất nông sản, nhưng do tập quán lâu đời nông dân cá thể vẫn chưa áp dụng triệt để tiến bộ khoa học. - Nông dân phần lớn sản xuất tự do, manh mún, không theo quy trình kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo, … Do đó không thể đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn của các công ty trong và ngoài nước. Điều này lý giải vì sao mà các chủ đầu tư ngại đầu tư vào phát triển sản xuất cho nông dân. - Tỷ lệ nông dân tiếp cận với thông tin thị trường, khoa học kỹ thuật hiện đại vẫn còn thấp. Theo điều tra của Bộ NN&PTNT thì chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp cận được với các thông tin thị trường trong khi 75% nông dân không biết gì cả. Các nguồn thông tin từ internet đến với người nông dân chiếm tỷ lệ không đáng kể. Hiện nay, cả nước đã có khoảng trên 8000 điểm bưu điện văn hóa xã nhưng chỉ có khoảng gần 1/2 số đó (4000 điểm) có thể kết nối Internet, sách báo tại các điểm bưu điện này còn thiếu thốn. 2.3 Định hướng cho người nông dân - Nông dân với vai trò là chủ thể trong sản xuất nông nghiệp cần phải chủ động trong hội nhập mới có được thành công. Trước hết, nông dân phải biết điểm mạnh, điểm yếu của mình trong điều kiện cụ thể ở từng địa phương để từ đó, phát huy mặt mạnh, khắc phục yếu kém, tạo nên những lợi thế so sánh, sản xuất ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, với khối lượng ngày càng lớn và chất lượng ổn định. - Nông dân cần phải biết rõ sản phẩm của mình sẽ bán ở đâu, với phương thức thế nào, giá cả bao nhiêu, yêu cầu chất lượng sản phẩm ra sao? Đây là vấn đề rất quan trọng, thiết thực để nông dân chủ động trong hoạch định và tổ chức sản xuất. - Người nông dân thời hội nhập cần phải có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành tốt. Có kiến thức sẽ giúp cho việc nắm bắt thông tin thị trường, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chọn giống cây, con phù hợp và áp dụng tốt tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và bảo quản, chế biến, … - Một vấn đề rất quan trọng đối với nông dân thời hội nhập là cần phát huy vai trò, trách nhiệm hơn nữa trong việc liên kết trong sản xuất để khắc phục tình trạng bất cập: nhỏ lẻ, phân tán, chuyển đổi chậm, không đồng bộ, chưa liên kết thành chuỗi đang diễn ra. - Cần tham gia trong tiến trình đổi mới hợp tác xã nông nghiệp hiện nay và tiến tới hình thành các doanh nghiệp nông nghiệp. Nông dân cần chủ động trong hoạt động của hợp tác xã vì muốn sản xuất tốt trong cơ chế thị trường thì phải cùng nhau hợp tác, tăng khả năng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng năng lực sản xuất, khả năng vốn, tiêu thụ sản phẩm để tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nông dân - Làm nông nghiệp nhất thiết cần sự hợp tác chặt chẽ của bốn nhà (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) mới mong thành công. Khi đó mới có thể cải thiện mọi mặt đời sống cho người nông dân. + Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện thể chế thị trường, thực hiện triệt để các cải cách kinh tế và chính sách kinh tế xã hội quan trọng, xây dựng được các chiến lược phát triển. + Nhà nước cần chủ động trong việc quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, vùng chuyển đổi sang công nghiệp, dịch vụ rõ ràng và mang tính dài hạn để việc hoạch định kế hoạch sản xuất mang tính ổn định, lâu dài. + Cùng với những chính sách của nhà nước, các đoàn thể, các nhà khoa học, hiệp hội ngành nghề và các doanh nghiệp cần hỗ trợ nông dân trong quá trình liên kết sản xuất và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất. Cần thiết phải tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, tăng cường khuyến nông, đào tạo nghề cho nông dân. + Các đoàn thể, các doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề phải cùng chung tay góp sức với nông dân trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Sự phối hợp tốt sẽ tránh được việc “Phát triển thương hiệu nông sản kiểu làng, xã” hay “Cá thể” mà xây dựng thương hiệu trên cơ sở vùng miền và quốc gia. + Để mối liên kết giữa bốn nhà thực sự bền vững và hiệu quả, cùng với sự nỗ lực tham gia của các “Nhà” (Nhà nước, nhà kinh doanh, nhà khoa học …) thì nhà quản lý có vai trò hết sức quan trọng. Nếu các cơ quan này chủ động vào cuộc một cách tích cực để thực hiện các biện pháp như: quy hoạch, dồn điền đổi thửa, định hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp, giới thiệu những mô hình sản xuất mới hiệu quả cao, … thì sự liên kết giữa các “nhà” mới có điều kiện phát huy được hiệu quả và đem lại lợi ích cho người nông dân cũng như cho xã hội. - Nông dân cần phải được thông tin về dự báo tình hình thị trường, được trang bị kiến thức về thị trường và những tiến bộ kỹ thuật mới để từ đó áp dụng vào sản xuất. Thông tin sẽ giúp nông dân mở rộng tầm nhìn, tự học và nghiên cứu để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu sản xuất trong cơ chế thị trường. - Chúng ta cần phải trang bị cho nông dân những kiến thức và kỹ năng để áp dụng mô hình sản xuất nông nghiệp tốt GAP (Good Agricultural Practices). Đây là tiêu chuẩn mà nhiều nước yêu cầu bắt buộc để nông sản có thể được phép nhập khẩu. Áp dụng GAP, nông dân sẽ có được nông sản với chất lượng cao, giá bán cao hơn, đồng thời hạn chế sử dụng hóa chất nhằm từng bước sản xuất ra sản phẩm sạch và góp phần bảo vệ môi trường. - Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, không còn cách nào khác là chúng ta phải hỗ trợ để nông dân thay đổi tư duy sản xuất nhỏ lẻ manh mún, áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, làm ra sản phẩm sạch để cạnh tranh trên thị trường. 3. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, đời sống của người nông dân đã và đang dần được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Hội nhập vào nền kinh tế quốc tế mang lại nhiều lợi thế cho Việt Nam nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng. Song bên cạnh đó cũng không tránh khỏi những khó khăn và thách thức. Người nông dân cần phải thay đổi tâm lý sản xuất, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ tay nghề, trình độ kỹ thuật để tiếp cận với các công nghệ tiên tiến áp dụng vào trong sản xuất. Đây là điều cần thiết trong thời kỳ hội nhập. Để phát huy những lợi thế và khắc phục những khó khăn, không chỉ cần đến sự cố gắng của bản thân người nông dân mà phải cần thêm sự liên kết của bốn nhà: nhà nước - nhà nông - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp. Nếu người nông dân tích cực, chủ động và được sự hỗ trợ, giúp đỡ từ nhà nước, các đoàn thể, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và toàn xã hội thì chắc chắn quá trình hội nhập WTO của nông dân và nông nghiệp Việt Nam sẽ thành công. 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO ông_dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docco_hoi_va_thach_thuc_cua_nong_dan_viet_nam_trong_thoi_ky_hoi_nhap_9481.doc
Tài liệu liên quan