Tiểu luận Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 3

I/ Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) - những vấn đề lý luận chung 3

I.1. Cổ phần hóa là gì 3

I.2. Điều kiện tiến hành cổ phần hóa DNNN 4

I.3. Khu vực kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 6

I.3.1. Vai trò của kinh tế nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế quốc dân 6

I.3.2. Thực trạng khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay. 7

I.4. Cổ phần hóa, biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta 9

II/ Thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay 13

II.1. Cổ phần hóa DNNN - tốc độ chưa đáp ứng được nhu cầu 13

II.2. Vì sao cổ phần hóa DNNN lại diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn. 16

II.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở các nước trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam 18

II.3.1. Cổ phần hóa DNNN qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới. 18

II.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam 19

III/ Các giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN ở nước ta hiện nay 21

III.1. Các giải pháp ở tầm vi mô 21

III.2. Các giải pháp ở tầm vĩ mô 23

III.3. Những kiến nghị của bản thân nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa ở DNNN ở nước ta. 25

KẾT LUẬN 30

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6121 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà nước do đó không phát huy được tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp dẫn tới thực trạng là hầu hết các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, trong các doanh nghiệp đã được hoạt động tự chủ hơn nhưng do buông lỏng quản lý dẫn tới tệ nạn tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, xã hội. Khi các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang các công ty cổ phần đã khắc phục được những khuyết điểm trên. Để thấy rõ vấn đề ta thử xem xét cấu trúc quản lý và kiểm soát của công ty cổ phần qua sơ đồ sau: Đại hội cổ đông Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Giám đốc điều hành Phó giám đốc điều hành Phó giám đốc điều hành Phó giám đốc điều hành Phòng chuyên môn Phòng chuyên môn Phòng chuyên môn Phòng chuyên môn Qua sơ đồ trên ta thấy cơ cấu hoạt động của công ty cổ phần là rất chặt chẽ, hội đồng quản trị sẽ bầu ra (hoặc đi thuê) ban giám đốc và thực hiện giám sát trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có ban kiểm soát hoạt động độc lập do đại hội cổ đông bầu ra. Do đó các công ty cổ phần sẽ hoạt động một cách an toàn và hiệu quả. - Cổ phần hóa tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Trước đây do chưa coi trọng và chưa có cơ chế cụ thể để người lao động thực hiện quyền làm chủ về kinh tế. Từ đó quyền làm chủ chỉ dừng lại ở nguyên tắc, khẩu hiệu chứ không đi vào thực chất. Với việc cổ phần hóa DNNN tất cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp đều có thể tham gia mua cổ phần của công ty. Họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp, có trách nhiệm rõ ràng cụ thể thông qua lá phiếu biểu quyết tương ứng với số cổ phần sở hữu. Quyền lợi của họ gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh do đó tạo điều kiện thúc đẩy họ làm việc. Và điều quan trọng khác là họ có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý công ty. Đó là sự làm chủ thực sự của người lao động. Ngoài các vai trò trên của quá trình cổ phần hóa đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Xét trên phạm vi toàn xã hội, cổ phần hóa các DNNN còn có vai trò quan trọng trong việc cấu trúc lại nguồn vốn đầu tư của nhà nước, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia; thu hút tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân chúng, thúc đẩy quá trình hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa xuất phát từ vai trò to lớn đó ta có thể khẳng định cổ phần hóa là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước trong quá trình tổ chức sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay. II/ Thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay. Kể từ khi có quyết định 202/CP của chính phủ ngày 8/6/1992 về việc cổ phần hóa doanh nghiệp, đến nay đã được hơn 6 năm. Trong quá trình cổ phần hóa có rất nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chỉ đi vào nghiên cứu tiến trình cổ phần hóa DNNN và nêu ra các nguyên nhân dẫn đến tình trạng cổ phần hóa ở nước ta diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn để từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN. II.1. Cổ phần hóa DNNN ở nước ta - tốc độ chưa đáp ứng được yêu cầu. Tính tới ngày 1/9/1998, cả nước có 38 DNNN đã hoàn thành cổ phần hóa(*) Theo số liệu của Thời báo kinh tế 26/9/1998 , trong đó có 12 công ty đã đi vào hoạt động hơn một năm, có thể thấy, vốn điều lệ của các doanh nghiệp này tăng bình quân 19,06%, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu năm 1997 là 44% số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm. Tuy nhiên nếu đem so sánh với số lượng doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện nhà nước giữ lại 100% vốn và mục tiêu chuyển 150 DNNN thành công ty cổ phần năm 1998 thì quá trình này diễn ra quá chậm và không đồng đều giữa các ngành các địa phương. Để làm rõ vấn đề, chúng ta hãy xem xét tiến trình cổ phần hóa DNNN từ tháng 6/1992 tới nay. Quá trình cổ phần hóa DNNN được bắt đầu từ ngày 8/6/1992 khi chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ) ban hành quyết định 203/CT về danh sách DNNN được chọn để chỉ đạo thí điểm thành công ty cổ phần gồm 7 doanh nghiệp: - Nhà máy xà phòng miền Nam - Nhà máy diêm thống nhất - Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc - Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình - Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng - Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội - Xí nghiệp may mặc Legamex thành phố HCM Kết quả sau 6 tháng triển khai thì chỉ có duy nhất xí nghiệp may mặc Legamex chuyển thành công ty cổ phần vào tháng 12/1992. Còn lại các doanh nghiệp khác thì hoặc là muốn rút lui hoặc là muốn chờ đợi, nhưng chưa có nào có văn bản đề nghị chính thức. Nguyên nhân cơ bản là do mục tiêu cổ phần hóa của doanh nghiệp của chính phủ chưa phù hợp. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế chính sách chưa phù hợp. Một số vấn đề về cơ chế chính sách chưa phù hợp với thực tế khách quan, chưa khuyến khích được doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa. Mặt khác có sự không đồng tình từ phía lãnh đạo doanh nghiệp và công nhân do có sự đụng chạm về quyền lợi, lợi ích vật chất và việc làm. Sau năm 1992, quá trình cổ phần hóa vẫn tiếp tục được triển khai, tuy nhiên tốc độ quá chậm. Trong 3 năm từ năm 1993-1995 chúng ta chỉ cổ phần hóa được thêm 5 doanh nghiệp nữa là: Đại lý LH vận chuyển (Tổng công ty hàng hải); Cơ điện lạnh (TP. HCM); Giầy Hiệp An (Bộ Công nghiệp); CB hàng xuât khẩu Long An; Công ty chế biến thức ăn gia súc (Bộ nông nghiệp). Từ năm 1996, tốc độ có tăng lên, năm 1996 ta cổ phần hóa được 6 DNNN, năm 1997 ta cổ phần hóa được 4 DNNN gồm khách sạn Sài gòn, CTCP Nam Đô (TP. HCM); xí nghiệp sơn Bạch Tuyết (TP. HCM). Năm 1998 ta đã cổ phần hóa được 17 doanh nghiệp. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai địa phương dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong cả nước. Cho tới năm 1998, thành phố HCM có 662 DNNN, cùng với việc chuẩn bị sẵp xếp lại DNNN việc cổ phần hóa một bộ phận DNNN cũng được đẩy mạnh. Từ khi có nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của chính phủ về việc cổ phần hóa DNNN thành phố cho thấy: ngoài hai công ty: cơ điện lạnh, công ty ong mật đã thực hiện cổ phần hóa trong thời gian làm thí điểm, 7 doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần, 3 doanh nghiệp đang ở giai đoạn thẩm tra giá trị doanh nghiệp, 15 doanh nghiệp đang xây dựng đề án. Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội là nơi thực hiện sớm nhất chương trình cổ phần hóa các DNNN. Trong 3 năm đầu thành phố đã chọn xí nghiệp đồ mộc làm thí điểm. Từ cuối năm 1996 tới hết năm 1997 khi chính phủ ban hành nghị định 28/CP, thành phố đã có 10 doanh nghiệp triển khai cổ phần hóa, trong đó 5 doanh nghiệp thuộc ngành thương mại dịch vụ và 5 doanh nghiệp khác thuộc ngành sản xuất và xây dựng. Sang năm 1998, các đơn vị: Công ty giầy Thụy Khuê, Xí nghiệp cơ khí điện tử, nhà máy thực phẩm chùa Bộc... cũng đang tích cực triển khai các bước cổ phần hóa doanh nghiệp. Tuy nhiên trong tất cả doanh nghiệp nói trên hiệ mới chỉ có 4 doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần là: Công ty đầu tư sản xuất thương mại, công ty cổ phần khách sạn Phú Gia, CTCP Thành Công, XN sản xuất đồ mộc. Như vậy so với mục tiêu năm 1998 thành phố HCM v 20 doanh nghiệp và theo đánh giá của ông Đinh Hạnh - Phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội thì tốc độ cổ phần hóa của hai thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh - hai thành phố được coi là địa phương đầu đàn về cổ phần hóa - quá chậm chạp và chưa đáp ứng yêu cầu. Qua thực tiễn hơn 6 năm thực hiện cổ phần hóa DNNN, bài viết xin đưa ra một số đánh giá về những mặt được và chưa được trong thí điểm cổ phần hóa một số DNNN. - Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng và mục tiêu đạt được trong thực tế. Về mục tiêu lý tưởng Đảng ta đưa ra ba mục tiêu cơ bản quá trình cổ phần hóa. Một là, chuyển một phần sở hữu nhà nước thành sở hữu của cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hai là, phải huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Ba là, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Kết quả thực tế là: Về mục tiêu thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp đều đạt được mục tiêu này, hiệu quả sản xuất được nâng cao, doanh thu tăng 146%, lợi nhuận doanh nghiệp tăng 181%, nộp ngân sách nhà nước tăng 157%. Ngoài ra, nhà nước còn có thể cổ tức của 18% vốn. Về mục tiêu thứ ba, các doanh nghiệp được cổ phần đã huy động được một khối lượng vốn trong nước. Tuy nhiên, hiện nay số vốn thu mua từ các nhà đầu tư nước ngoài thông qua công ty cổ phần là rất ít do đó cần phải có giải pháp để khuyến khích các cổ đông là người ngoại quốc trong thời gian tới. Về mục tiêu thứ ba, thì phần lớn các cổ đông ở các công ty cổ phần là cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp cũ, họ làm chủ thực sự công ty của họ, họ hoạt động không chỉ vì đồng lương mà còn vì lợi tức hoạt động và giá trị cổ phần trong công ty. - Thứ hai, về phương pháp cổ phần hóa. Do chưa có sự thống nhất của cơ quan chỉ đạo cổ phần hóa nhà nước về sự cần thiết để lại cổ đông nhà nước, mức độ để lại là bao nhiêu phần trăm, vì vậy các doanh nghiệp cổ phấn hóa đều để lại một phần cổ đông của nhà nước. Nhưng mức độ khác nhau. Việc xác định tỉ lệ phần trăm về bán cho ai? Cán bộ công nhân trong doanh nghiệp, bán ra bên ngoài và để lại cổ đông nhà nước thiếu sự quy định thống nhất. - Thứ ba, về quyền lợi của người lao động trong các công ty cổ phần hóa. Vấn đề này trong quá trình cổ phần hóa được thảo luận nhiều, về sau đã có thông tư 09/LĐTB-XH của Bộ Lao động hướng dẫn. Tuy nhiên khi về địa phương, các cơ quan quản lý lao động và bảo hiểm xã hội lại chưa được quán triệt vì thiếu sự chỉ dẫn của cấp trên về phương pháp tiến hành cho đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để. Thứ tư, vấn đề các tổ chức Đảng, công đoàn, các tổ chức xã hội khác hoạt động như thế nào. Hiện nay trong các công ty cổ phần hóa, các hoạt động của các tổ chức Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên vẫn diễn ra bình thường. Tuy nhiên, đã nảy sinh ra một số vấn đề cần giải quyết: - Mục tiêu, nói chung và phương pháp lãnh đạo của tổ chức Đảng trong các công ty cổ phần, mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của tổ chức Đảng với hội đồng quản trị. - Mục tiêu nói chung, phương pháp hoạt động công đoàn trong các công ty cổ phần mà trong đó vừa có sở hữu của nhà nước vừa có sở hữu của các cổ đông. Đại hội của các cổ đông và đại hội công nhân viên chức trong công ty sẽ tiến hành ra sao... - Chi phí cho các hoạt động của Đảng, công đoàn công ty phải có đóng góp như trước đây không. II.2. Vì sao cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lại diễn ra chậm chạp và khó khăn Mặc dù, chính phủ đã ban hành quyết định về cổ phần hóa DNNN cách đây hơn 6 năm, trong thời gian đó chính phủ, các bộ, các ngành đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc hướng dẫn, thi hành, tuy nhiên quá trình cổ phần hóa DNNN trên thực tế diễn ra rất chậm chạp, vậy nguyên nhân nào làm cho các DNNN chần chừ khi tham gia vào quá trình cổ phần hóa. Sau đây là một số nguyên nhân cơ bản: Cũng như các nước thuộc phe XHCN trước đây, khó khăn, cản trở lớn nhất của nước ta khi tiến hành cổ phần hóa là cơ chế quản lý quan liêu bao cấp được duy trì quá lâu vì vậy khu vực tư nhân luôn được coi là đối tượng cải tạo XHCN. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường, trong đó hình thái kinh tế một chủ tự đúng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều nay gây ra sự bỡ ngỡ cho cả mẫu đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu và đó cũng là một trong những nhân cơ bản làm cho chương trình cổ phần hóa ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài. Cùng với sự yết ớt, nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó phải kể tới thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán được hiểu là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch và mua bán chứng khoán. Chứng khoán bao gồm nhiều loại song cổ phiếu là cơ bản. Do đó, thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường. Do thiếu vắng thị trường chứng khoán do đó việc huy động vốn, trao đổi, giao dịch chứng khoán gặp nhiều khó khăn, do đó nó đã gây khó khăn và làm cản trở quá trình cổ phần hóa của chúng ta trong mấy năm qua. Tuy đã xác định được các mục tiêu chủ yếu cần đạt tới qua cổ phần hóa “Nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh, huy động một bộ phận vốn và tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của người lao động” là đúng, song một loạt vấn đề có tính nguyên tắc cần xử lý để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trên đã không được định hướng rõ ràng, dứt khoát trên cơ sở nhận thức nhất quán. Hơn nữa không phải mọi mục tiêu nêu ra là hoàn toàn thống nhất với nhau, nhất là phương án lựa chọn tỉ lệ các loại cổ đông hay các phần giá trị doanh nghiệp bán cho các cổ đông. Dẫn đến lúng túng trong xử lý công việc. Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của nhà nước về luật phát, thuế khóa, tiền tệ... chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách kinh tế ra đời chồng chéo, mâu thuẫn nhau và thay đổi đột ngột, sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm so với đòi hỏi của kinh tế thị trường... là yếu tố gây bất lợi cho quá trình cổ phần hóa các DNNN. Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề có liên quan tới chương trình cổ phần hóa như: các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm xã hội, các chi phí để thực hiện việc tư vấn quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các giao dịch buôn bán cổ phiếu... các khoản phí tổn này thường là rất lớn, tuy nhiên nếu bỏ qua sẽ không khuyến khích được quá trình chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Sự yếu kém trong hệ thống kiểm toán gây nhiều trở ngại cho việc đánh chính xác giá trị của doanh nghiệp, tình hình hoạt động và triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp được chọn làm cổ phần hóa, do đó gây khó khăn cho việc cung cấp các thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phần hóa với những doanh nghiệp này. Trong phạm vi doanh nghiệp, nguyên nhân cơ bản là do các doanh nghiệp nhà nước của ta hầu hết có trang bị máy móc cũ kĩ, công nghệ lạchậu, khả năng cạnh tranh và thích nghi thấp... do đó khó có thể tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp này, số doanh nghiệp có mức lợi nhuận đủ hấp dẫn còn quá ít mặt khác đối với các doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì phần lớn nhà nước chưa có ý định cổ phần hóa. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp cổ phần, cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo những người có vốn đầu tư bằng cổ phiếu. Quá trình cổ phần hóa vẫn chưa được sự đồng tình ủng hộ của cán bộ, công nhân trong các DNNN vì vấn đề cổ phần hóa động chạm tới lợi ích của họ, người công nhân thì chưa thỏa đáng với việc đánh đổi giữa lợi tức cổ phần thu được và sự thất nghiệp, đối với cán bộ quản lý đứng trước nguy cơ mất việc nếu không làm tốt. Điều nay gây cản trở lớn cho quá trình cổ phần hóa vì cổ phần hóa được tiến hành là do nguyện vọng của các bên tham gia. Về tư tưởng và tâm lý của đại đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định đối với những người đang sống yên ổn trong khu vực nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế nhà nước là CNXH và vì vậy thu hẹp khu vực này có nghĩa là xa rời với CNXH, là phá vỡ cơ chế kinh tế CNXH... Đó là những trở ngại chủ quan không thể không tính đến trong quá trình tiến hành cổ phần hoá. II3. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam. II.3.1. Cổ phần hoá qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Cổ phần hoá DNNN tuy là mới mẻ so với nước ta nhưng trên thực tế hầu hết các nước phát triển thoe nền kinh tế thị trường đều đã tiến hành. Là một nước đi sau, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước và qua đó rút ra bài học cho quá trình cổ phần hoá ở nước ta. * Cổ phần hoá ở các nước tư bản phát triển. Tiến trình cổ phần hoá DNNN được các nước tư bản phát triển (đặc biệt ở Tây âu) tiến hành mạnh mẽ trong thập kỷ 80. Chính sách cổ phần hoá bao trùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng, việc tổ chức đời sống xã hội tuân theo các qui luật thị trường thương mại hoá sản xuất và cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập trung và cơ chế hành chính. Việc cổ phần hoá ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế nhà nước mới đảm nhận được mà là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này. Do đó chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương pháp tiến hành cổ phần hoá sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế nhà nước, mà trái lại nó đã củng cố địa vị xứng đáng cho các doanh nghiệp nhà nước. Xét về qui mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá khu vực kinh tế nhà nước ở các nước công nghiệp phát triển có sự thu hẹp theo các chỉ số về tỉ lệ việc làm tỉ trọng vốn đầu tư tư bản cố định và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế. Nét đặc trưng quá trình cổ phần hoá ở các nước tư bản phát triển là hình thành c ác công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước, tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và pháp luật của nhà nước. Những công ty quốc doanh được đổi mới thành các công ty cổ phần quan trọng làm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị này trở lên năng động. * Cổ phần hoá ở nhóm các nước đang phát triển. ở đây chúng ta nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở các nước đang phát triển châu á. Mục tiêu chính của cổ phần hoá ở các nước này là nhà nước rút khỏi các lĩnh vực hoạt động xét thấy không cần thiết phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền của nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân, nhằm thực hiện cạnh tranh để nâng cao hiệu quả, mục tiêu nữa của cổ phần hoá ở các nước này là phát triển thị trường chứng khoán trong nước. Điều này cho phép cùng với việc bán cổ phần của nhà nước cho tư nhân, thì việc mở rộng thị trường và huy động vốn qua đăng ký và phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng đã trở lên phổ biến và do đó số lượng các loại hình công ty cổ phiếu ở các nước này tăng nhanh chóng. Số tiền thu được từ việc bán cổ phiếu của các DNNN sẽ được bổ sung vào khoản ngân sách giành cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng, và các ngành kinh tế chiến lược mà nhà nước cần kiểm soát. * Cổ phần hoá ở nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu. Khác với các nước phát triển và đang phát triển, nơi có nền kinh tế thị trường khá phát triển và quá trình cổ phần hoá nhằm hướng vào thúc đẩy các hoạt động của thị trường sẵn có. Đôi với các nước XHCN cũ ở Đông âu đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối với các chính phủ mới thành lập, cam kết thực hiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và chuyển sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do cá nhân. Đối với các nước này, việc tiến hành cổ phần hoá và tư nhân hoá được đặt trong một chương trình tư nhân hoá rộng lớn, diễn ra một cách ồ ạt, cho nên quá trình này trở nên hết sức khó khăn và phức tạp, qui mô và phạm vi tiến hành đồ sộ mà thời gian đòi hỏi ngắn hơn nhiều so với các nước khác, hơn nữa hầu hết các DNNN làm ăn kém hiệu quả. II.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam qua kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở các nước trên thế giới. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, có thể rút ra một số bài học cho quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước như sau: * Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá. Việc triển khai có tính chất toàn cầu hoá quá trình cổ phần hoá được tiến hành mạnh mẽ từ những năm 80 tới nay đã chứng tỏ rằng hầu hết các chính phủ các nước đều thấy sự cần thiết phải xác lập lại mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân theo hướng giảm bớt mức độ sở hưũ và kiểm soát trực tiếp của nhà nước, giành sự điều tiết mạnh mẽ hơn cho cơ chế thị trường. Tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể thiếu nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó đặc biệt quan tâm tới vấn đề thu hẹp sở hữu nhà nước và sự can thiệp trực tiếp của nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp coi trọng vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hoá DNNN ở nước ta là tất yếu khách quan và cũng là một đòi hỏi khách quan của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. * Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá. Quá trình cổ phần hoá phản ánh các sắc thái khác nhau vì mục tiêu, các tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những đặc điểm về hoàn cảnh chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như quan niệm xây dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi chính phủ qui định. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhất là đã có hoạt động mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thì gặp thuận lợi hơn nhiều so với những nước có nền kinh tế thị trường chậm phát triển và thị trường chứng khoán chưa hình thành. Đặc biệt là ở các nước Đông Âu do thiếu những điều kiện hết sức quan trọng cho nên quá trình cổ phần hoá của các nước này diễn ra lâu dài và phức tạp hơn nhiều so với các nước tư bản phát triển. Quá trình cổ phần ở Việt Nam, chúng ta không thể không chú ý đến tính đặc thù về điều kiện qui định mục tiêu, phương pháp bước đi trong quá trình cổ phần hoá các DNNN. Trong điều kiện ở nước ta chưa có thị trường chứng khoán, khu vực kinh tế nhà nước còn chiếm tỉ trọng lớn, thì có thể học tập kinh nghiệm của các nước có điều kiện tương đồng. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng những kinh nghiệm đó cần chú ý tới tính đặc thù của mỗi nước để sàng lọc và thử nghiệm kỹ càng trong điều kiện của nước ta. Tính chiến lược của quá trình thực hiện cổ phần hoá: Nhiều công trình nghiên cứu về kinh nghiệm của một số nước về vấn đề này đều cho thấy cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế và vì vậy, nó đỏi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao. Vì vậy ở hầu hết các nước, để cho chương trình thực hiện thành công, chính phủ đều lập ra cơ quan đại diện đứng đầu hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với vấn đề cổ phần hoá. Cơ quan này phải quản lý toàn bộ quá trình theo những quan điểm có tính chiến lược trong việc đánh giá, soạn thảo chỉ đạo, kiểm tra và điều chỉnh. Đây là một yếu tố cốt lõi trong sự thành công của chương trình cổ phần hoá ở nhiều nước. Tạo môi trường pháp lý cho việc cổ phần hoá. Các nước khi tiến hành cổ phần hoá đều phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết. Đó là các bộ luật quan trọng và là điều kiện để xác lập, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra các khung pháp luật cho sự chuyển hoá và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá và các công ty nói chung. ở Việt Nam để tiến hành cổ phần hoá và đổi mới cơ chế kinh tế nói chung, không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Cho tới nay, nhà nước cũng đã liên tiếp ban hành nhiều bộ luật nhằm xác định và hoàn thiện môi trường pháp lý để từng bước tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá DNNN thực hiện kết quả. Ngoài ra, cần phải có tổ chức để thẩm tra, thanh tra cổ phần hoá DNNN nhằm chống và hạn chế tham nhũng trong khi thực hiện quá trình này. Mặt khác, phải đảm bảo tỉ suất lợi nhuận ở các công ty cổ phần bằng hoặc cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân, nếu thấp hơn người mua phải được bù lại bằng quyền có việc làm... III. Các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến hành cổ phần hoá các DNNN ở nước ta. Cho tới nay quá trình cổ phần hoá DNNN đã được triển khai hơn 6 năm, tuy nhiên tốc độ rất chậm chạp. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN các nhà kinh tế đã đưa ra một số giải pháp như sau: III.1. ở tầm vi mô: 1. Cần phải xác định rõ những doanh nghiệp loại nào thì tiến hành cổ phần hoá và tỉ lệ phần trăm vốn của nhà nước cần giữ lại ở từng nhóm doanh nghiệp cụ thể. Quyết định số 202/CT của thủ tướng chính phủ qui định các điều kiện lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá, trong đó có điều kiện " không thuộc diện những doanh nghiệp cần t hiết phải giữ 100% vốn đầu tư của nhà nước". Hiểu như thế nào về điều kiện này, hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể. Nếu quan niệm rằng DNNN được thành lập và hoạt động không phải vì mục đích lợi nhuận hoặc trước hết là không phải vì lợi nhuận trực tiếp, thì chỉ cần giữ lại các doanh nghiệp thực kết cấu hạ tầng và tạo nên môi trường kinh doanh cho các thành phần kinh tế khác hoạt động. Còn lại đa phần các doanh nghiệp khác phải được chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc đan xen giữa sở hữu nhà nước, tập thể tư nhân cá thể... bằng các giải pháp khác nhau trong đó có cổ phần hoá. Nếu xuất phát từ quan điểm cho rằng DNNN phải nắm vị trí chủ đạo trong hầu hết các ngành kinh tế, kể cả sản xuất, lưu thông và dịch vụ. Từ đó chỉ chủ trương chuyển đổi sở hữu, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhỏ thua lỗ. Trường hợp nếu một số doanh nghiệp tương đối lớn được đưa vào cổ phần hoá thì nhà nước phải nắm tỉ lệ cổ phần đa số để giữ vai trò quản lý của doanh n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72036.doc
Tài liệu liên quan