Tiểu luận Cơ sở lý luận và thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế

Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm nói chung và thanh tra, kiểm tra xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, song trên thực tế còn chưa phát huy được hết vai trò của nó, chưa thực sự là “tai- mắt của lãnh đạo”, chứ trở thành công cự hữu hiệu để chống thất thu ngân sách và răn đe các hành vi vi phạm về thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta nói chung, trình độ dân trí nước ta còn thấp, nhân thức và trách nhiệm về pháp luật chưa cao, chưa dựa trên thu thập thông tin và chưa đánh giá, phân tích phân loại mức độ rủi ro của thuế, và đối tượng nộp thuế để thanh tra đúng đối tượng, chưa ứng dụng tốt các chương trình tin học vào việc thanh tra, kiểm tra, xử lí các vi phạm về thuế.

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4981 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ sở lý luận và thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thanh tra thuế là một công đoạn và là một yếu tố cấu thành của hoạt đông lãnh đạo quản lí nhà nước của cơ quan thuế. Kiểm tra, thanh tra thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lí thuế theo mô hình chức năng. Kiểm tra, thanh tra thuế là một biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp thuế nhận thấy luôn có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại và kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm của họ. Về khái niệm chung thì kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế, nhằm đmar bảo pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế- xã hội. Về khái niệm riêng thì: - Kiểm tra thuế là hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá. - Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ quan thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí những hành vi trái pháp luật. * So sánh hoạt động thanh tra với kiểm tra thuế. Thanh tra là một hoạt động kiểm tra nên giữa thanh tra và kiểm tra có những điểm giống nhau: - Về mục đích: Thanh tra, kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý thuế. Đếu có cùng một mục đích phát hiện, ngăn ngừa, xử lí những VPPL luật thuế nhằm thúc đẩy các tở chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của PL thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lí thuế. - Về chủ thể: Chủ thể thanh tra, kiểm tra thuế là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, theo quy định của pháp luật thường là cơ quan thuế. - Về đối tượng: Đối tượng của thanh tra, kiểm tra là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước và các đơn vị trong nội bộ ngành thuế. -Về nội dung: Nội dung thanh tra, kiểm tra thuế là việc chấp hành pháp luật thuế. - Về phương pháp: thanh tra, kiểm tra thuế đều phải tiến hành các hoạt động phân tích xác định rủi ro, truy lần lại việc xử lý dữ liệu, tính toán lại và xác minh. Tuy nhiên thanh tra, kiểm tra thuế có những khác nhau cơ bản sau: - Về đối tượng: Thanh tra áp dụng cho các đối tượng có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, cơ cấu tổ chức phức tạp, hoặc khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế, hoặc để giải quyết khiếu nại tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp. - Về phạm vi nội dung: Thanh tra thường là nội dung rộng, phức tạp, có thể liên quan đến nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau. Tính chất của thanh tra là một hoạt động dựa vào quyền lực của cơ quan quản lí nhà nước. Kiểm tra thuế là hoạt động trung tính, có thể là hoạt động của cơ quan quản lí nhà nước, có thể là hoạt động quản lí đơn thuần. - Về biện pháp áp dụng: thanh tra được áp dụng các biện pháp mạnh hơn (tạm giữ tang vật, tài liệu; khám nơi cất dấu tang vật, tài liệu – theo quy định của Luật quản lý thuế). - Về mục đích: Mục đích của thanh tra thuế là phát hiện, ngăn chặn những hành vi trái pháp luật. Mục đích của kiểm tra thuế là phát hiện những sai lệch của đối tượng kiểm tra để ngăn chặn và điều chỉnh những sai lệch ấy. - Về thời gian: Thời gian thanh tra thường dài hơn thời gian kiểm tra thuế. Cụ thể thanh tra thuế thường là không quá 30 ngày, kiểm tra thuế thường không quá 5 ngày. * Mục tiêu của kiểm tra, thanh tra thuế. - Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý thu ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành. - Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm đánh giá việc chấp hành các luật thuế của các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực. - Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả kiểm tra, thanh tra, cơ quan thuế các cấp có thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các quy trình quản lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn. -Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm hướng dẫn, giúp đỡ đối tượng nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện luật thuế; đồng thời nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi hành công vụ. -Thông qua công tác thanh tra nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa những hành vị tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi về nghiệp vụ chuyên môn. * Nguyên tắc kiểm tra, thanh tra thuế. - Điều 75 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định về nguyên tắc kiểm tra thuế, thanh tra thuế: “1. Thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. 2. Không cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế. 3. Tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” Như vậy để công tác kiểm tra, thanh tra thuế đạt hiệu quả cao, ta cần đảm bảo một số nguyên tắc nhất định: - Chủ thể thanh tra, kiểm tra phải nhận thức đúng vấn đề, nội dung thanh tra, kiểm tra; xác định, đánh giá chính xác bản chất của sự việc để kết luận thanh tra, kiểm tra được chính xác; phải thông báo đầy đủ, công khai từ nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra, kiểm tra đến kết luận thanh tra, kiểm tra để cá nhân, tổ chức có liên quan biết và giám sát việc thực hiện - Chủ thể thanh, tra kiểm tra phải phán ánh đúng sự vật, hiện tượng như nó vốn có, không được lồng ý kiến chủ quan khi mô tả sự vật, hiện tượng. - Chủ thể thanh tra, kiểm tra phải tuân theo các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, các quy định của pháp luật. Hoạt động thanh tra, kiểm tra phải diễn ra đúng trật tự, đúng quy trình do ngành đã quy định tránh trường hợp làm cản trơt hoạt động bình của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế. 2. Vi phạm pháp luật thuế. * Khái niệm: Trong khoa học pháp lí, VPPL được hiểu là hành vi làm trái các quy định của pháp luật, do tổ chức hoặc cá nhân thực hiện với lỗi xác định, gây thiệt hại đến lợi ích chung và do đó phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi đó của mình. Từ quan niệm này, ta có thể định nghĩa về VPPL thuế như sau: VPPL thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về thuế, do tổ chức. cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi đó của mình. Ta có thể nhận diện hành vi VPPL thuế nhờ những dấu hiệu cơ bản sau: - Về chủ thể: là các cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt động hành thu thuế như người nộp thuế, cơ quan thuế hoặc công chức ngành thuế. - Mặt khách quan: VPPL thuế là hành vi vi phạm những quy tắc xử sự chung được thể hiện trong trật tự pháp luật, xâm hại đến những lợi ích chung hoặc lợi ích riêng đang được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: hành vi trốn thuế , khai man tiền thuế… - Mặt chủ quan: Lỗi của người vi phạm là cố ý hoặc vô ý. Tính chất có lỗi của người VPPL thuế được xem là một trong số các căn cứ để xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người thực hiện hành vi. - Khách thế: hành vi VPPL thuế làm phương hại đến những lợi ích cụ thể được pháp luật bảo vệ, những lợi ích đó có thể là lợi ích riêng của cá nhân hoặc lợi ích chung của toàn xã hội. * Phân loại VPPL thuế và các biện pháp xử lý VPPL trong lĩnh vự thuế: Trong thực tiễn pháp lí, các hành vi VPPL thuế diễn ra rất đa dạng, tinh vi và phức tạp, với nhiều dạng thức khác nhau. Việc phân loại VPPL về thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt là giúp cho các nhà làm luật xây dựng được cơ chế xử lí phù hợp, thỏa đáng với từng nhóm loại và từng hành vi VPPL về thuế. Tuy nhiên, cho dù các vi phạm này tồn tại dưới những hình thức nào thì về phương diện bản chất, mỗi vi phạm đó đều thuộc về một trong các loại hình vi phạm sau đây: - VP hành chính về thuế: là hành vi làm trái các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử lí hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính. Theo Điều 1 Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 về xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thì vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế bao gồm: + Vi phạm các quy định về thu, nộp tiến thuế, tiền phạt. Hình thưc và mức độ xử + Vi phạm các quy định về đăng ký thuế; kê khai thuế; lập và nộp thuế, quyết toán thuế. + Vi phạm các quy định về kiểm tra thanh tra thuế. + Hành vi trốn thuế. - Đối với các vi phạm hành chính về thuế thì áp dụng chế tài hành chính để xử lí. Các biện pháp chế tài hành chính gồm biện pháp cảnh cáo, phạt tiền…được áp dụng đối với các nhóm hành vi vi phạm hành chính (gồm 5 nhóm đã nêu ở trên). - VP hình sự về thuế: là hành vi trái pháp luật luật hình sự, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được luật hình sự bảo vệ. Theo quy định của BLHS hiện hành thì các hành vi vi phạm hình sự trong lĩnh vực thuế được coi là tội phạm bao gồm các dạng cơ bản sau: + Tội trốn thuế (Đ161 BLHS). + Tội tham ô tài sản (Đ278 BLHS). + Tội nhận hối lộ (Đ279 BLHS). + Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Đ281 BLHS) … Nếu hành vi VPPL thuế của tổ chức, cá nhân cấu thành một hoặc nhiều tội phạm được quy định trong BLHS thì người vi phạm sẽ phải chịu các chế tài hình sự. Thực tiễn cho thấy các vi phạm hình sự chủ yếu trong lĩnh vực thuế là hành vi trốn thuế, hành vi tham ô tiền thuế, hành vi nhận hối lộ, hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ, hành vi cố ý làm trái các nguyên tắc quản lí tài chính trong lĩnh vự thuế. Trên thực tế các hành vi này đều được quy định là tội phạm trong BLHS năm 1999 và đều có thể bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật này, tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi hành vi. - Các vi phạm khác về thuế: Trong lĩnh vực chấp hành pháp luật thuế, các VPPL về thuế không chỉ diễn ra dưới hình thức vi phạm hành chính hay vi phạm hình sự mà còn có thể diễn ra dưới những dạng khác như: VPPL thuế về hình thức…. 3. Mối quan hệ giữa thanh tra- kiểm tra với xử lí VPPL trong lĩnh vực thuế. Giữa thanh tra- kiểm tra với xử lí VPPL thuế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhờ hoạt động thanh tra, kiểm tra mà phát hiện được những vi phạm và tiến tới hoạt động xử lí VPPL trong lĩnh vực thuế và ngược lại, những dấu hiệu của vi phạm là tiền đề để cơ quan thuế tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra. Vận dụng tốt mối quan này là một nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lí thuế, nó không những góp phần phát hiện, xử lí nghiêm các hành vi vi phạm mà còn có tác dụng răn đe giáo dục giúp các đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật trong lĩnh vực thuế. II. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế. 1. Ưu điểm và thành tựu: Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm là một chức năng thiết yếu đảm bảo cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng của quản lí nhà nước. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm nói chung và thanh tra, kiểm tra xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, góp phần phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế ngăn ngừa các mặt tiêu cực làm ổn định kinh tế- chính trị, tăng cường kỉ cương, công bằng xã hội. Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện được nhiều vụ VPPL trong lĩnh vực thuế: -Theo số liệu thông kê từ năm 1999 đến năm 2005, qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã phát hiện nhiều vụ VPPL thuế nghiêm trọng đến mức phải truy cứu TNHS, cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ sang cơ quan công an là 1616 vụ vi phạm, thu hồi được cho NSNN 242,7 tỷ đồng. - Sau 6 tháng thanh tra, kiểm tra các đại lý xe máy trên toàn quốc (từ tháng 6 -12/2009) các chi cục thuế địa phương đã "rà" 395 lượt đối tượng nộp thuế, xử lý thu vào ngân sách nhà nước số tiền 2 tỷ 573 triệu 78.194 đồng, trong đó số thuế truy thu là 2 tỷ 262 triệu 630.020 đồng, gồm thuế giá trị gia tăng 777 triệu 341.045 đồng,  thuế Thu nhập DN 1 tỷ 485 triệu 288.975 đồng và xử lý phạt 311 triệu 248.174 đồng. - Bộ Tài chính cho biết từ năm 2010, cơ quan này đã thí điểm việc thanh kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp kê khai lỗ liên tiếp trong nhiều năm, nhưng vẫn duy trì và mở rộng hoạt động và đã thu được khoảng 4.000-5.000 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước từ công tác này. Mặc dù, con số này so với tổng doanh thu là không lớn, nhưng được xem là có ý nghĩa đáng kể trong việc đánh thức các doanh nghiệp tuân thủ quy định về thuế. Trong những năm vừa qua, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trở thành công cự hữu hiệu để chống thất thu ngân sách và răn đe các hành vi vi phạm về thuế: - Mặc dù nền kinh tế mới chỉ kịp hồi phục sau khủng hoảng, nhiều chỉ tiêu tăng trưởng chưa đạt yêu cầu, nhưng kết quả thu từ  sản xuất kinh doanh (chưa kể thu từ  dầu thô) đạt khá, với mức vượt 35.300 tỷ đồng so với nhiệm vụ Quốc hội giao, đưa tỷ trọng này trong tổng thu ngân sách tăng từ  61,8% năm 2009 lên 62,5% năm 2010; đưa số thu ngân sách do ngành thuế quản lý chiếm tới 85% tổng số thu ngân sách nhà nước. Với kết quả này, ngành thuế hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu ngân sách giai đoạn 5 năm 2006-2010 với mức vượt 219,5 nghìn tỷ đồng so với dự  toán, tăng gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2010 – 2005; đạt tốc độ tăng thu bình quân 16,5%/năm (riêng thu nội địa trừ  dầu đạt tốc độ tăng thu bình quân 22,5%/năm), đáp ứng yêu cầu chi của các cấp ngân sách và góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Kết quả này có một phần đóng góp không nhỏ của công tác thanh tra, kiểm tra của ngành Thuế đã ngăn chặn có hiệu quả các hành vi vi phạm của các cơ sở sản xuất kinh doanh, tạo sự công bằng, bình đẳng và đồng thuận thực hiện tốt các chính sách thuế trên toàn quốc. - Với chức năng nhiệm vụ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế (ĐTNT) trong việc chấp hành pháp luật thuế, giải quyết tố cáo về hành vi trốn thuế, lậu thuế liên quan ĐTNT thuộc phạm vi Cục Thuế quản lý, năm qua cơ quan thuế đã tăng cường triển khai đồng bộ và hiệu quả các biện pháp chống thất thu ngân sách từ công tác thanh tra. Trong đó, tập trung thanh tra khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chú trọng các doanh nghiệp có doanh thu lớn, số thuế GTGT âm kéo dài hoặc không có số thuế nộp, những doanh nghiệp có số lỗ lớn; doanh nghiệp làng nghề có chi phí bất hợp lý; doanh nghiệp XDCB không kê khai doanh thu, bỏ ngoài sổ sách...Trong năm, cơ quan thuế đã lập kế hoạch thanh tra gần 55.000 doanh nghiệp, thực hiện được khoảng gần 400.000 doanh nghiệp, đạt gần 73% .Kết quả xử lý sau thanh tra truy thu và phạt được tổng số tiền hàng nghin tỷ đồng. Có thể nói, trong các giải pháp triển khai thu ngân sách của ngành Thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra có một vai trò rất quan trọng trong quá trình quản lý và thu ngân sách. Hoạt động thanh tra phát huy hiệu quả không chỉ xử lý kịp thời, truy thu thêm cho ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng mà còn giúp các doanh nghiệp nâng cao được ý thức trách nhiệm của mình đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước. 2. Hạn chế: nguyên nhân và giải pháp. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm nói chung và thanh tra, kiểm tra xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, song trên thực tế còn chưa phát huy được hết vai trò của nó, chưa thực sự là “tai- mắt của lãnh đạo”, chứ trở thành công cự hữu hiệu để chống thất thu ngân sách và răn đe các hành vi vi phạm về thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta nói chung, trình độ dân trí nước ta còn thấp, nhân thức và trách nhiệm về pháp luật chưa cao, chưa dựa trên thu thập thông tin và chưa đánh giá, phân tích phân loại mức độ rủi ro của thuế, và đối tượng nộp thuế để thanh tra đúng đối tượng, chưa ứng dụng tốt các chương trình tin học vào việc thanh tra, kiểm tra, xử lí các vi phạm về thuế. * Lực lượng thanh tra, kiểm tra của toàn ngành Thuế hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu. Thực trạng: Thực tế, nhiều năm qua, năm nào ngành Thuế cũng để xảy ra các sai sót trong công tác chống thất thu. Một phần là do nóng vội, nhưng mặt khác là do lực lượng thanh tra viên quá mỏng và nghiệp vụ chuyên môn còn hạn chế. Thời gian qua vẫn còn không ít trường hợp khi kiểm tra việc nộp thuế, có thanh tra viên cố tình kéo dài thời gian, nhũng nhiễu gây bức xúc trong doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp trong tỉnh Bắc Kạn đang rất quan tâm tới việc Cty TNHH Đại Minh (Cty Đại Minh) "cả gan" gửi đơn tố cáo Đoàn kiểm tra của Chi cục Thuế thị xã Bắc Kạn đã “lợi dụng công tác để kéo dài thời gian kiểm tra nhằm doạ nạt, vòi tiền doanh nghiệp” đến các cơ quan Nhà nước tỉnh Bắc Kạn và Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính). Nội dung đơn tố cáo nêu rõ: Đoàn kiểm tra  3 người gồm ông Bùi Xuân Thanh làm trưởng đoàn, bà Lương Thị Huy và ông Đặng Đình Hoàng là thành viên. Trong Quyết định số 34 ngày 2/6/2010 của Chi cục Thuế thị xã Bắc Kạn "v/v kiểm tra thuế tại Cty Đại Minh", thời gian là 40 ngày, được thực hiện từ ngày 7/5 - 17/6/2010; Đoàn kiểm tra thuế đã mới biên bản hoàn tất công việc, theo biên bản, số thuế mà Cty Đại Minh còn phải nộp vào ngân sách Nhà nước là 279.008.578 đồng. Tuy nhiên ông Bùi Xuân Thanh đã “đặt giá” với doanh nghiệp: Phải chi 40 triệu đồng tiền mặt thì sẽ sửa lại biên bản để giảm số tiền thuế phải nộp từ 279.008.578 đồng xuống 174 triệu đồng Công tác thanh tra thuế luôn chấp hành đúng theo Nghị định 61 của Chính phủ. Theo đó, việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chỉ được thực hiện khi có quyết định của thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải thông báo cho doanh nghiệp trước khi công bố quyết định thanh tra ít nhất là 7 ngày. Theo quy định, thời gian thanh tra ở một doanh nghiệp không quá 30 ngày (chỉ tính ngày thực tế đến làm việc). Tuy nhiên có trường hợp thanh tra viên thuế cố tình kéo dài để nhũng nhiễu các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải chi một khoản tiền không nhỏ để việc thanh tra, kiểm tra diễn ra nhanh chóng, suôn sẻ hơn. Nguyên nhân: Đây chỉ là một trong số rất nhiều vụ việc mà thanh tra viên thuế bị lên án, tố cáo. Tình trạng trên vẫn còn tồn tại là do các thanh tra viên thuế còn thiếu đạo đức nghề nghiệp. Tuy đây chỉ là bộ phận rất nhỏ nhưng nó đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín và trách nhiệm ngành thuế nói chung vì vậy cần phải được loại bỏ. Vấn đề đặt ra là cần đào tạo, giáo dục để cán bộ thuế không vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Cùng với đó là một cơ chế thanh tra nội bộ cán bộ thuế, xử lý hết sức nghiêm túc. Thường xuyên kiểm tra xem cán bộ thuế có thực hiện đúng qui định hay không. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính càng hiện đại, càng gọn nhẹ bao nhiêu thì cán bộ thuế càng ít có cơ hội nhũng nhiễu, tiêu cực bấy nhiêu. Giải pháp hoàn thiện: - Tăng cường trách nhiệm của cơ quan thu thuế và cán bộ thu thuế. Hiện nay chúng ta đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế. Trong lĩnh vực thuế, chúng ta phải tiến hánh sửa đổi, bổ sung những quy định để phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan. Do đó để đảm bảo nguồn thu cho nhà nước, lại đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc hội nhập thì các cán bộ thuế cần phải được đào tạo để nâng cao trình độ cũng như để đấu tranh và xử lí có hiệu quả với những hành vi trốn thuế, gian lận thuế một cách rất tinh vi, xảo quyệt. Bên cạnh việc nâng cao trình độ thì việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ thuế cũng cần được các ngành quan tâm thường xuyên, liên tục. Các cán bộ thuế phải có nhiệm vụ chấp hành pháp luật cũng như nội quy của ngành. Các trường hợp VPPL của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế cần được xử lí nghiêm. Vì vậy, không chỉ giáo dục ý thức pháp luật mà cơ quan quản lí nhà nước phải luôn luôn có sự kiểm tra đối với hoạt động của các cán bộ trong cơ quan. - Tăng cường sự kiểm tra, thanh tra trong nội bộ cơ quan cũng như của các cơ quan nhà nước khác với cơ quan thu thuế. Trong hoạt động quản lí nhà nước, hoạt động thanh tra, kiểm tra mang tính tất yếu. Trong lĩnh vực thuế, thanh tra trong nội bộ ngành là điều kiện cần thiết để phát hiện các trường hợp mà cán bộ thuế không thực hiện đúng nhiệm vụ mà pháp luật yêu cầu. Ngoài việc tăng cường sự kiểm tra nội bộ thì chúng ta cũng cần phải tăng cường sự kiểm tra của nhân dân đối với cơ quan, cán bộ thu thuế. Khi chịu sự giám sát của cả trong và ngoài thì chắc hẳn những hành vi vi phạm sẽ sớm bị phát hiện và xử lí kịp thời. * Ý thức chấp hành pháp luật của người nộp thuế chưa cao dẫn đến nhiều vi phạm. Thực trạng: Hiện nay ở nước ta, hiện tượng VPPL trong lĩnh vực thuế diễn ra ở các tỉnh, các thành phố với những tính chất và mức độ vi phạm khác nhau. Theo tổng cục thuế trong năm 2009, ngành thuế cả nước đã kiểm tra 53.490 lượt đối tượng nộp thuế. Qua đó, ngành đã phát hiện và xủa lí thu về cho ngân sách 21.500 tỷ đồng tiền thuế ẩn lậu. Ngoài ra công tác chống thất thu ngân sách cũng được tiến hành với 403 đối tượng, phát hiện số thuế ẩn lậu là 523 tỷ đồng. Cũng trong năm 2009 lực lượng cảnh sát kinh tế đã phát hiện 146 vụ vi phạm về hoàn thuế GTGT với tổng số tiền nhà nước bị chiếm đoạt hơn 124 tỷ đồng. Như vậy những hành vi VPPL trong lĩnh vực thuế gây thất thu rất lớn cho NSNN. Những hành vi vi phạm được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn nhưng phổ biến nhất là hành vi gian lận nội dung của hóa đơn, chứng từ nhằm trốn thuế. Nguyên nhân: Thực trạng trên vẫn còn tồn tại nguyên nhân chính là do đối tượng nộp thuế còn coi thường pháp luật, cố tình vi phạm để trục lợi. Ngoài ra còn do lực lượng thanh tra- kiểm tra, xử lí VPPL thuế còn hạn chế nên không thể kiểm soát và xử lí hết các hành vi vi phạm được. Giải pháp hoàn thiện - Cơ quan quản lí thuế cần nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng nộp thuế bằng cách tuyên truyền, giáo dục họ chấp hành đúng pháp luật về thuế, kiểm tra thường xuyên và định kỳ những đối tượng có dấu hiệu VPPL về thuế. - Hoàn thiện cơ chế thu, nộp thuế để đối tượng nộp thuế dễ dàng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Thư nhất: Các cơ quan có thẩm quyền cần kịp thời ban hành văn bản QPPL trong lĩnh vực thuế. Đồng thời cũng phải kịp thời bãi bỏ những quy định không còn phù hợp. Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều đạo luật thuế, điều này đã cải tiến được công tác thu nộp thuế, tăng cường nguồn thu cho NSNN. Thứ hai: Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế.Việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp thuế và cán bộ thu thuế khi thực hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở các luật thuế, pháp lênh thuế, cơ quan thuế đã có những sáng kiến, biện pháp để đơn giản hóa thủ tục thu thuế. Thứ ba: Tiến hành trao đối thường xuyên giữa các cơ quan thuế với các đối tượng nộp thuế. Qua sự trao đổi với các đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế sẽ tìm ra những điểm chưa phù hợp trong quy định của pháp luật để có kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật. - Kiên quyết xử lí các hành vi VPPL thuế nghiêm minh, đúng người, đúng tội. Các cơ quan thuế, cơ quan bảo vệ pháp luật khi tiến hành xử lí các đối tượng có hành vi VPPL trong lĩnh vực thuế phải kiên quyết, triệt để, xử lí đúng người, đúng tội, đúng hành vi vi phạm. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. việc xử lí chính xác của cơ quan thuế cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật vừa có ý nghĩa trừng trị, vừa có tác dụng giáo dục đối tượng vi phạm. Nếu các cơ quan xử lí nhẹ thiếu kiên quyết thì sẽ tạo ra thái độ coi thường pháp luật ở đối tượng vi phạm, còn nếu xử lí quá nặng so với tích chất vi phạm thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tượng cũng như tạo ra dư luận xấu trong xã hội. - Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí VPPL thuế. Đối tượng nộp thuế ngày càng tăng trong khi số lượng thanh tra thuế có hạn, các nước quản lí thuế theo chế độ tự khai, tự nộp thường thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lí VPPL thuế trên cơ sở phân tích rủi ro về đối tượng nộp thuế, tức là chỉ lựa chọn đối tượng nộp thuế có rủi ro cao nhất để tiến hành thanh tra. Để có thông tin phân tích rủi ro, cơ quan thuế phải xây dựng hệ thống thông tin về người nộp thuế và đưa ra những tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ của người nộp thuế. Để nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí VPPL thuế, ngành thuế Việt Nam bên cạnh việc bổ sung, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí VPPL thì cần đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống thông tin về người nộp thuế, quy định cụ thể trách nhiệm cung cấp thông tin của đối tượng nộp thuế và cá nhân, tổ chức có liên quan. Việc ứng dụng CNTT sẽ hỗ trợ đắc lực cho cơ quan thuế trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí VPPL thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.doc
Tài liệu liên quan