MỤC LỤC
Mở đầu . .1
Nội dung .1
I. Khái quát về quyền trẻ em 1
1.định nghĩa quyền trẻ em . .1
2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ em . 2
3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em . .4
II. Cơ sở bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn . 6
1. Cơ sở thực tiễn . 6
2. Cơ sở pháp lý .7
III. Thực trạng về việc bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn.
1. Thành tựu . .7
2. Hạn chế . .8
3. Giải pháp 10
3.1. Giải pháp về mặt pháp lý .10
3.2 Giải pháp về mặt xã hội .11
Kết luận .12
Danh mục tài liệu tham khảo .13
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2930 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ sở lý luận và thực trạng về việc bảo vệ quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước” như một lí do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách nhà nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ mays nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Điều này lí giải cơ cấu cân đối ngân sách nhà nước được pháp luật ghi nhận. Điều 8 Luật ngân sách nhà nước quy định rõ “ Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát triển”. Với những lí do đó, bất kì quốc gia nào cũng cần phải có và mong muốn có được hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lí vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếptới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lí hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của nhà nước.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lí, điều tiết tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội. Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại và vận động theo nhu cầu và lợi ích của họ, điều này có thể tổn thương đến trật tự xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt động, vào quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng bị hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành, nghề, qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau tuỳ theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hoá, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại; trong khi đó lại khuyến khích tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hoá, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội.
Thứ ba, nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lí thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn với chế độ chứng từ hoá đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lí nền kinh tế; trên cơ sở đó có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
Tóm lại, pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của chính các quan hệ thuế. Đến lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát sinh, phát triển theo chiều hướng mong muốn. Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế hiện nay, pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo một môi trường chính trị, kinh tế-xã hội ổn định, tiến bộ làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công.
3. Thực trạng pháp luật thuế
3.1. Thành tựu của pháp luật thuế
Trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, pháp luật thuế đã có những tác động đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế. Cho tới nay việc thực thi hệ thống pháp luật thuế đã đạt được những thành tựu nhất định.
Thứ nhất, pháp luật thuế hiện hành của Việt Nam về căn bản là pháp luật thuế của một nền kinh tế thi trường, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật thuế đã thể hiện được quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích quyền tự do kinh doanh của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, đến từ trong và ngoài nước. Cụ thể, là các luật thuế hiện hành không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong nước, giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài về nghĩa vụ nộp thuế (trừ thuế thu nhập cá nhân); đã quy định các mức thuế phù hợp để giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế và đơn giản hoá thủ tục thuế…
Thứ hai, pháp luật thuế đã thể chế hoá các quan điểm, chính sách về thuế kịp thời đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kì. Pháp luật thuế hiện hành đã thể hiện rõ vai trò thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nhìn chung, về phương diện lí luận, hệ thống thuế của Việt Nam có cơ cấu tương đối hợp lí, đảm bảo bao quát hết nguồn thu, với ba nhóm thuế: thuế đánh vào tiêu dùng, thuế đánh vào thu nhập, thuế đánh vào tài sản. Nhờ đó, tỷ trọng các khoản thu từ thuế trong tổng thu ngân sách nhà nước ngày càng tăng. Bên cạnh đó, pháp luật thuế cũng đã được ban hành mới, sửa đổi bổ sung kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Thứ ba, pháp luật thuế về căn bản được xây dựng đồng bộ với các mảng pháp luật khác trong hệ thống pháp luật về kinh tế. Trước hết, pháp luật thuế là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật kinh tế. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế không thể tuỳ tiện mà phải kết hợp hài hoà với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thương mại, đầu tư và đất đai…Về phương diện này, pháp luật thuế hiện hành đã căn bản đồng bộ với luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật đất đai và các luật có liên quan khác. Pháp luật thuế hiện hành mang tính ổn định và góp phần tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch và hấp dẫn các nhà đầu tư và làm các nhà đầu tư nước ngoài an tâm về môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Thứ tư, pháp luật thuế đã từng bước phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hội nhập quốc tế đề ra yêu cầu sửa đổi hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật thuế nói riêng. Trong những năm qua hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương về thương mại và về khu vực mậu dịch tự do. Điển hình là những sửa đổi, bổ sung trong luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo các cam kết của Việt Nam trong khu vực mậu dịch tự do AFTA ; sửa đổi bổ sung luật thuế tiêu thụ thụ đặc biệt, luật thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, nhập khẩu sau khi Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Bên cạnh đó, việc Việt Nam kí kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần với gần 60 nước trên thế giới để đảm bảo và khuyến khích đầu tư cũng đã là những bước tiến quan trọng trong các quan hệ song phương về thuế.
3.2 Hạn chế của pháp luật thuế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật thuế Việt Nam vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập:
Thứ nhất, trong từng sắc thuế hiện hành vẫn còn có các quy định không công bằng và chưa bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khác nhau; thuế nhìn chung vẫn thiên về chức năng bảo hộ (thiếu khoa học và chọn lọc) và thu ngân sách nhà nước là chủ yếu mà chưa chú trọng thoả đáng đối với chức năng điều tiết kinh tế và hướng dẫn tiêu dùng của thuế.
Ví dụ , đối với thuế TTĐB việc áp dụng các mức thuế suất khác nhau phân biệt giữa thuốc lá có đầu lọc và thuốc lá không có đầu lọc bởi như quy định hiện hành thuốc lá không có đầu lọc (có hại cho sức khoẻ nhiều hơn thuốc lá có đầu lọc) lại được hưởng mức thuế suất thấp hơn thuốc lá không có đầu lọc (25% so với 45% và 65%) là không hợp lí.
Thứ hai, dưới giác độ hội nhập, có thể nhận thấy pháp luật thuế Việt Nam hiện hành còn một số ít nội dung chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa đảm bảo tính tương thích với hệ thống thuế của các nước trong khu vực.
Thứ ba, pháp luật thuế của nước ta còn phức tạp, thiếu tính hệ thống, chưa thể hiện sự đơn giản, rõ ràng và minh bạch; đồng thời thiếu tính ổn định cần thiết do thường xuyên phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu thực tế.
Thứ tư, hệ thống thuế đang phải phục vụ quá nhiều mục tiêu: kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội do đó mất đi tính trung lập cần thiết-một trong những yếu tố dẫn tới sự hiệu quả trong phân bổ nguồn lực.
Thứ năm, công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế có những thành công bước đầu song để đạt được mục tiêu đề ra thì còn rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới, cũng như trong công cuộc cải cách hành chính nói chung đang từng bước được triển khai thực hiện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ sáu, tính thực thi, hiệu quả của pháp luật thuế nhìn chung chưa cao; một số quy định gián tiếp làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực xã hội (như các khe hở pháp lí dẫn đến hiện tượng luồn, lách luật…)
Những tồn tại nêu trên, dù muốn hay không cũng cần được xem xét như một lời cảnh báo cần thiết và hữu ích cho việc phát huy vai trò của pháp luật thuế ở Việt Nam trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4.Giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
4.1. Xây dựng hệ thống pháp luật thuế nhằm giữ vững vị trí nguồn thu từ thuế trong kết cấu NSNN.
Xuất phát từ cội nguồn xuất hiện thuế và vai trò của thuế trong kết cấu nguồn thu ngân sách, bất kì quốc gia nào cũng mong muốn đạt tới số thu từ thuế ngày càng tăng trưởng. Kết quả nghiên cứu về lịch sử phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Hệ thống pháp luật thuế đang tạo cơ sở pháp lí cho việc hình thành nguồn thu ổn định với tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước. Thu từ thuế đã thực hiện được nguyên tắc cân đối: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu bắt buộc khác không những đảm bảo chi trả cho toàn bộ các khoản chi thường xuyên mà còn đáp ứng một phần cho chi đầu tư phát triển. Tuy nhiên, với hệ thống pháp luật thuế hiện hành cùng với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ phải thực hiện nguồn thu từ thuế có thể bị giảm sút. Sự giảm sút không chỉ là hệ quả của việc sửa đổi thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà còn là hệ quả của việc sửa đổi các khoản thu từ thuế nội địa. Hàng ngàn dòng thuế của thuế nhập khẩu đang ở mức thuế suất cao nay phải cắt giảm theo cam kết làm giảm số thu tuyệt đối từ thuế nhập khẩu. Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cũng hạ thấp hơn, cơ sở tính thuế cũng được xác định lại làm cho số thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt giảm đáng kể. Bên cạnh đó việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số loại thuế khác chắc chắn cũng làm giảm số thu từ thuế so với hiện tại. Chẳng hạn như, luật thuế thu nhập cá nhân được ban hành sẽ làm giảm diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp; số các nhà kinh doanh cá thể không nằm trong diện phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là con số rất đáng kể so với việc các đối tượng kinh doanh thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh những khó khăn nhất định đặt ra cho hệ thống nguồn thu từ thuế, mục tiêu thu trong các năm tiếp theo lại có xu hướng tăng. Trước thực tế đó yêu cầu đặt ra cho hệ thống pháp luật thuế là phải tìm ra các giải pháp chủ yếu để tăng nguồn thu từ thuế, phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cụ thể:
Để giữ vững nguồn thu từ thuế cần tiến hành một số công việc:
- Cần xác định đúng và đủ phạm vi điều chỉnh của mỗi loại thuế. Việc xác định đúng và đủ phạm vi áp dụng của một loại thuế không chỉ đảm bảo nguyên tắc công bằng trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế mà còn là biện pháp tăng thu thực tế và tạo cơ sở pháp lí ổn định các loại nguồn thu cho NSNN. Chẳng hạn như trong thuế thu nhập cá nhân việc xác định đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập, không phân biệt thu nhập từ kinh doanh hay không rõ ràng mở rộng diện chịu thuế so với quy định trước đây nhưng nếu xét cụ thể hơn nguồn thu có thể lại bi giảm do quy định về mức khởi điểm tính thuế. Tuy nhiên sẽ có hàng loạt các đối tượng, các loại thu nhập chưa phải chịu thuế theo quy định hiện hành sẽ nằm trong diện chịu thuế của loại thuế mới. Đó có thể là thu nhập từ đầu tư chứng khoán, thu nhập từ chuyển nhượng vốn, thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất…Vì vậy, việc tiếp tục bổ sung diện chịu thuế, căn cứ tính thuế trong mỗi luật thuế là hoàn toàn cần thiết.
- Tiếp tục nghiên cứu và xác định lại những hoạt động kinh tế, xã hội cần phải điều chỉnh bằng loại thuế mới. Thực tế cho thấy có nhiều loại hoạt động phát sinh trong đời sống xã hội chưa thực sự chịu sự tác động của hệ thống thuế. Yêu cầu bảo vệ môi trường và khả năng hỗ trợ trong vấn đề bảo vệ môi trường là một ví dụ. Việc ban hành luật thuế bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu sự gia tăng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường; tăng nguồn thu cho ngân sách từ thuế không nằm ngoài những mục tiêu đó. Tương tự, việc ban hành luật thuế đánh vào hoạt động đăng kí, chuyển nhượng các loại tài sản đủ điều kiện luật định có vai trò nâng cao khả năng quản lí tài sản xã hội, tăng nguồn thu cho ngân sách và thay thế các khoản thu mang tính chất thuế đánh vào hoạt động đăng kí chuyển nhượng tài sản và vốn là việc làm cần thiết trong giai đoạn trước mắt.
4.2 Tuân thủ nguyên tắc chung của pháp luật thuế.
Pháp luật thuế không chỉ bao gồm các luật thuế cụ thể mà còn chứa đựng các nguyên tắc chung để thực hiện, phát huy vai trò của pháp luật thuế.
Đảm bảo nguyên tắc công bằng. Nguyên tắc công bằng đòi hỏi pháp luật thuế phải thể hiện sự công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế trong từng luật thuế cũng như trong cả hệ thống pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này những vấn đề phát sinh trong công tác hành thu thuế sễ được giảm thiểu; hệ thống pháp luật thuế dễ được người dân chấp nhận, tự giác tuân thủ, đảm bảo nguồn thu cho NSNN.
Thực hiện tốt nguyên tắc minh bạch, công khai. Minh bạch của hệ thống pháp luật thuế yêu cầu các quy phạm pháp luật thuế phải rõ ràng, giảm thiểu những quy định dẫn chiếu từ văn bản này sang văn bản khác hoặc hạn chế sự dẫn chiếu những quy định chung. Để đảm bảo sự minh bạch các quy định trong đạo luật thuế liên quan đến phạm vi áp dụng, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế…cần phải được quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu để đa số dân chúng có thể hiểu được quyền và nghĩa vụ về thuế của mình. Đây cũng chính là phương án phòng ngừa tốt đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Đảm bảo tính ổn định. Tính ổn định của hệ thống pháp luật thuế thực chất cũng thể hiện sự công bằng, minh bạch. Đảm bảo tính ổn định của pháp luật thuế sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện, ổn định và thu hút đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Xét ở khía cạnh tài chính, ổn định hệ thống pháp luật thuế là căn cứ quan trọng để thực hiện cân đối NSNN, tạo sự chủ động thực sự cho cả kì ổn định ngân sách. Để đảm bảo tính ổn định cho cả hệ thống pháp luật thuế cũng như từng luật thuế, cần xác định tính định hướng đón đầu của tiến trình phát triển kinh tế xã hội trong nước và tiến trình hội nhập quốc tế, những ảnh hưởng của chúng đối với hệ thống pháp luật thuế. Đối với từng luật thuế cụ thể phải tính toán đến những quy định mang tính chất lâu dài về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, thuế suất áp dụng trong một thời kì nhất định.
Xây dựng và tôn trọng nguyên tắc của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế. Quy định cụ thể về nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế cần tương ứng với quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan thu, cán bộ thực hiện nhiệm vụ trong cơ quan thu. Khi người dân nộp thuế được tôn trọng và xác định trước trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong quan hệ thuế, họ sẽ chấp nhận đối với hệ thống pháp luật thuế. Việc ghi nhận và tôn trọng người nộp thuế cũng là cách thức để các cơ quan thu, nhân viên hệ thống thuế giảm thiểu các hành vi mang tính lạm quyền, có cách nhìn nhận đúng đắn về những đối tượng tạo ra của cải xã hội và tạo nguồn vật chất cho chi tiêu của ngân sách.
4.3. Đảm bảo mức độ tương thích của hệ thống pháp luật thuế Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.
Vấn đề tương thích giữa hệ thống pháp luật thuế Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia phát sinh như là một nhu cầu tất yếu. Vấn đề này đặt ra khi Việt Nam không chỉ kí kết các điều ước song phương và đa phương với rất nhiều quốc gia mà còn công nhận cam kết và tuân thủ với nhiều điều ước quốc tế đa phương đã được thực hiện và kí kết trước đó. Về mức độ tương thích với hệ thống pháp luật thuế của các quốc gia kí kết điều ước quốc tế yêu cầu cơ bản đặt ra là phải đảm bảo tính tương đồng về nguyên tắc định hướng. Cụ thể là phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định để đảm bảo sự phù hợp với những cam kết về thuế giữa các nước kí kết và tham gia các cam kết quốc tế với các nước trên thế giới và khu vực.
Nguyên tắc cơ bản nhất về thuế theo thoả thuận với các quốc gia khác thường được đặt ra như yêu cầu tiên quyết là nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc ràng buộc và cắt giảm thuế quan, nguyên tác công khai minh bạch.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử bao trùm các cam kết thể hiện trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương, đặc biệt trong lĩnh vực thuế quan và thương mại. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là việc một quốc gia đưa ra những điều kiện nhằm đặt một quốc gia, hay pháp nhân, hay cá nhân một cơ quan khác không kém phần thuận lợi so với các quốc gia khác. Trong lĩnh vực thuế, nguyên tắc không phân biệt đối xử yêu cầu các loại phí và thuế nội địa sẽ không áp dụng cho các sản phẩm nhập khẩu với mục đích bảo hộ cho các sản phẩm nội địa; ràng buộc các nước thành viên không được áp dụng phí và thuế nội địa đánh vào hàng hoá nhập khẩu nặng hơn so với hàng hoá sản xuất trong nước. Thể hiện sự không phân biệt đối xử được cụ thể hoá thông qua hai nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia.
Nguyên tắc ràng buộc và cắt giảm thuế quan, bảo hộ thông qua thuế quan và phi thuế quan. Nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia mở cửa thị trường bằng cách giảm số thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu từ quốc gia kí kết, giảm thiểu sự bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước thông qua hàng rào thuế nhập khẩu và các khoản thuế đánh ở khâu nhập khẩu.
Thực tế cho thấy nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã có thời kì thực thi chính sách bảo hộ hàng nội điạ tương đối rõ ràng và ngặt nghèo. Việc bảo hộ thể hiện dưới các hình thức như trợ cấp đầu vào, cho vay với lãi suất thấp để tiến hành kinh doanh, ưu đãi thuế quan, hạn chế hoặc cấm nhập khẩu…Hệ luỵ của chính sách bảo hộ là sự méo mó về giá cả, tình trạng độc quyền và cạnh tranh giả tạo. Giải pháp đối với Việt Nam là chỉ được thực hiện thông qua thuế quan mà không được phép thực hiện bảo hộ thông qua các biệ pháp khác. Bên cạnh đó, cơ quan thuế cũng không được phép thu các khoản thu ngoài thuế, phí mà thông qua đó có thể bảo hộ cho sản xuất trong nước thông qua sự cạnh tranh giả tạo về giá.
Về nguyên tắc minh bạch pháp luật. Minh bạch hoá pháp luật không đơn thuần là nguyên tắc mà Việt Nam cam kết thực hiện theo các điều ước quốc tế mà còn là nguyên tắc của dân chủ. Để thực hiện nguyên tắc này cần có các quy định cụ thể về nghĩa vụ thuế, các biện pháp xử lí vi phạm thuế,…
Một vấn đề khác liên quan đến cam kết của Việt Nam là việc thực thi các hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Thực hiện các cam kết tai hiệp định tránh đánh thuế hai lần thực chất liên quan đến quyền lực nhà nước về thuế trước xu thế toàn cầu hoá. Quan hệ pháp luật thuế không chỉ chịu tác động của quá trình hội nhập mà còn chịu tác động của quá trình tái cơ cấu các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia. Chính những tác động này ảnh hưởng đến chính sách thuế và hệ thống pháp luật thuế. Nếu không có các chính sách và lộ trình, bước đi cụ thể, tác động của hội nhập có thể ảnh hưởng đến quyền tự quyết và quyền chính trị của quốc gia. Bên cạnh các cam kết quốc tế trong lĩnh vực thuế, Việt Nam cũng luôn đề cao tính độc lập chủ quyền.
4.4. Đảm bảo thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Hệ thống pháp luật thuế suy cho cùng là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phải phản ánh được và định hướng được yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội. Việc đề ra các giải pháp phát huy vai trò của pháp luật thuế phải đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo tiến trình hội nhập quốc tế.
Thực hiện quá trình chuyển đổi kinh tế, hệ thống pháp luật thuế phải đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc đối xử. Điều này đặt ra yêu cầu cho nhà làm luật là tiếp tục, sửa đổi hệ thống pháp luật thuế hiện hành.
- Đối với thuế nhập khẩu.
Thống nhất các văn bản pháp luật để có một biểu thuế hoàn chỉnh, điều chỉnh các mức thuế suất một cách ổn định, lâu dài theo lộ trình đã cam kết về việc giảm thuế nhập khẩu.
Giảm bớt các thủ tục không cần thiết trong việc hoàn thuế.
Cần xây dựng đội ngũ có chuyên môn, được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm trong việc hành thu thuế.
- Đối với thuế TTĐB nhà nước nên mở rộng thêm một số hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB (các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp, mỹ phẩm cao cấp, điện thoại di động…không phân biệt đó là hàng hoá sản xuất trong nước hay hàng hoá nhập khẩu). Bởi đây là những loại hàng hoá dịch vụ mà thành phần sử dụng đa số là tầng lớp giàu có. Mặt khác, cần hạ mức thuế suất đối với một số mặt hàng, dịch vụ nhất định và chỉ nên áp dụng một mức thuế suất chứ không nên chia nhỏ như hiện nay làm cho biểu thuế TTĐB phức tạp và khó áp dụng. Cần xoá bỏ thuế suất thuế TTĐB theo quy định hiện hành phân biệt giữa thuốc lá có nguyên liệu nhập khẩu trên 51% với thuốc lá có nguyên liệu chủ yếu trong nước (vì quy định như vây vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia). Phải áp dụng thống nhất quy định giá tính thuế đối với hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB như quy định tại Điều 6 của luật thuế TTĐB, theo đó giá tính thuế là do cở sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế TTĐB, tức là giá tính thuế bao gồm cả chi phí bao bì vỏ hộp.
- Đối với thuế thu nhập cá nhân.
Cần quy định cụ thể hơn mức giảm trừ gia cảnh
Cần quy định rõ hơn các khoản chi phí khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế (chi phí nghề nghiệp, hoàn cảnh bản thân, chi phí cho y tế, giáo dục…)
- Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp.
Cần loại bỏ quy định liên quan đến ưu đãi thuế do sử dụng nhiều lao động nữ, cần quy định ưu đãi cho việc sử dụng lao động địa phương, cho phép trừ đối với các khoản chi phí liên quan đến an sinh của người lao động.
Cần bổ sung loại thu nhập từ hành vi chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần nếu phát sinh thu nhập nhưng phải trừ đi các khoản chi phí gắn với hoạt động này.
- Đối với thuế giá trị gia tăng.
Cần quy định rộng hơn về các mặt hàng thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng.
Nên áp dụng một mức thuế suất cho tất cả các mặt hàng để đảm bảo tính công bằng và tính khả thi trong việc áp dụng.
Cần c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập tài chính học kì đề 9.docx