Cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước được đánh giá là có khả năng canh tranh thấp. Sức mua và năng lực tích luỹ tái đầu tư, mở rộng sản xuất còn hạn chế. Trình độ kỹ thuật và công nghệ còn thấp so với thế giới trong khi nguồn vốn đầu tư phát triển không đủ đáp ứng nhu cầu Điều này đã làm suy giảm đáng kể sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế ngay cả trong điều kiện Việt Nam đạt được cam kết mở cửa thị trường với các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, cam kết giảm thuế, xoá bỏ hàng rào phi thuế, cho phép doanh nghiệp nước ngoài được tiếp cận rộng rãi hơn ở thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư tại Việt Nam cũng đã đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước sức ép canh tranh rất lớn ngay tại thị trường trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng không có lợi thế so sánh và các mặt hàng từ trước đến nay vẫn được bảo hộ ở mức cao.
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công Nghệ Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u trong và ngoài nước. Hiện tại thiết bị, công nghệ ngành May ở từng khâu sản xuất như sau:
Công đoạn cắt: Vẫn trải vải thủ công, chưa có máy trải vải; sử dụng máy cắt đầu bàn, thiết bị cắt vòng, các máy cắt đẩy tay tiên tiến có lực cắt khoẻ, tốc độ cao; các máy ép dính liên tục của Đức, Nhật có năng suất cao cũng đã được sử dụng.
Công đoạn may: Các máy may phần lớn là máy hiện đại có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Máy may chủ yếu là máy JUKI của Nhật. Các máy chuyên dùng (máy may 2 kim, máy vắt, cuốn ống, thùa bằng…) cũng đã được trang bị.
Xu hướng chung ngày càng nhiều máy chuyên dùng được sử dụng để nâng cao năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất mọi mặt hàng:
Dây chuyền may sơ mi của công ty may 10: Có tự động may cổ, may secmăng, máy tự động là thân áo.
Dây chuyền may quần: Dây chuyền đứng thao tác, nhiều bộ phận may theo chương trình tự động.
Công đoạn hoàn tất sản phẩm: Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng hệ thống là hơi, tối thiểu cũng dùng bàn là treo phun nước để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
2. Về công nghệ:
Công nghệ may cũng có sự chuyển biến kịp thời đồng bộ với thiết bị để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Công nghệ may ở các xí nghiệp gồm 4 giai đoạn:
Kho nguyên phụ liệu: Nguyên phụ liệu của từng mã hàng kèm theo bảng màu và số lượng được các xí nghiệp phát về từng phân xưởng.
Khâu cắt: Cắt trên giác đồ mẫu giấy, có nhiều ghim kẹm, có giấy lót dưới bàn vỉ đảm bảo chính xác, đánh số bằng giấy theo từng cây vải hoặc giác mẫu bằng hệ thống máy vi tính.
Khâu may: Công nhân tay nghề cao, các đường mí đều sử dụng cữ, gá. Các dây chuyền may bố trí vừa và nhỏ khoảng 25 - 26 máy may, sử dụng 34 - 38 lao động, có khả năng cơ động nhanh mỗi khi có thay đổi mã hàng chỉ cần tối đa 2 ngày là có thể ổn định sản xuất. Nhân viên kiểm tra được bố trí vào các dây chuyền may chấn chỉnh sai hỏng ngay từ đầu, tránh được sai hỏng hàng loạt.
Khâu hoàn tất: Rất được coi trọng vì đây là khâu tốn thêm chất lượng sản phẩm, phần lớn dùng hệ thống là hơi, đóng túi nilon cho vào thùng caton.
Công nghệ mới ứng dụng tin học đã được một số công ty đưa vào áp dụng trong một số khâu của quá trình sản xuất như phần thiết kế được làm trên máy vi tính và được nháy mẫu ra nhiều cỡ khác nhau.
Phần II
Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập wto
A/ Quan điểm và mục tiêu tổng quát phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010
Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Quyết Định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ việc thực hiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May đến năm 2010, với những quan điểm và mục tiêu như sau:
Quan điểm phát triển
Đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong quá trình đẩy nhanh phát triên công nghiệp Dệt May. Có như vậy mới huy động được mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, kể cả nguồn lực quốc tế cho bước phát triển đột biến trong thời gian ngắn đối với ngành công nghiệp Dệt May. Coi trọng các nguồn lực từ nhân dân lao động. Đồng thời đẩy mạnh kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực Dệt May, kể cả đầu tư nước ngoài cho phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm.
Coi trọng phát triển chiều rộng đi đôi với củng cố chiều sâu. Đây là bước đi quan trọng trong giai đoạn đến năm 2010. Công nghiệp Dệt cần phát triển thành từng cụm, nằm trong các khu công nghiệp nhằm tiết kiệm vốn đầu tư cho hạ tầng cơ sở, giải quyết vấn đề xử lý nước thải tập trung, lành mạnh trong môi trường sinh thái. Có như vậy mới có thể hình thành các doanh nghiệp mới vừa và nhỏ. Trên cơ sở đó tạo ra các cơ hội để đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất và áp dụng các mô hình quản lý, điều hành tiên tiến của thế giới vào công nghiệp Dệt May Việt Nam.
Công nghiệp May cần phát triển rộng khắp. đến tận các vùng nông thôn, miền núi nhằm huy động mọi nguồn vốn có trong nhân dân và trong mọi thành phần kinh tế. Có như vậy mới thu hút được mọi nguồn lực lao động khắp trên mọi miền đất nước, đồng thời thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hoá-hiện đại hoá vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, lấy May xuất khẩu để kích thích phát triển vải và các loại nguyên phụ liệu chất lượng cao, nghĩa là thúc đẩy phát triển ngành Dệt.
Tập trung phát triển các vùng nguyên liệu như bông, tơ tằm và xơ sợi tổng hợp cùng với việc phát triển công nghiệp hoá dầu. Cho đến nay, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 90% nhu cầu nguyên liệu ban đầu cho ngành Dệt May. Việc nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm Dệt May vừa là yêu cầu bắt buộc của thị trường nhập khẩu, vừa là môi trường của chiến lược phát triển ngành Dệt May nhằm nâng cao phần lợi nhuận cho ngành và cho đất nước.
Phát triển nhanh bằng việc đầu tư các công nghệ mới nhất, với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về sản lượng và chất lượng. Mặt khác, cần coi trọng và tận dụng các loại thiết bị đã qua sử dụng với công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp hoá, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây.
Đầu tư phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá cao theo loại công nghệ. Có như vậy mới tạo được bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải chuyên sâu và làm chủ được một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng mới chất lượng cao. Xây dựng mối quan hệ cung - cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại.
II. Mục tiêu phát triển
1.Mục tiêu tổng quát:
Phát triển ngành công nghiệp Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc khu vực và thế giới.
2.Các chỉ tiêu cụ thể:
Bảng 6: Các chỉ tiêu của ngành Dệt May năm 2005 và 2010.
Các chỉ tiêu
Đơn vị
2005
2010
1. KNXK
Triệu USD
4000 - 5000
8000 – 9000
2. Sử dụng LĐ
Nghìn LĐ
2500 - 3000
4000 – 4500
Các sản phẩm chủ yếu:
_ Bông xơ
_ Xơ sợi tổng hợp
_ Sợi các loại
_ Vải lụa
_ Sản phẩm dệt kim
_Sản phẩm may
Nghìn tấn
Nghìn tấn
Nghìn tấn
Triệu mét
Triệu sản phẩm
Triệu sản phẩm
30
60
150
1000
300
7800
80
120
300
1750
500
1500
4. Tỷ lệ sử dụng NPL nội địa trên SP Dệt May XK
%
>50
>75
Nhu cầu vốn đầu tư toàn Ngành
_ Tổng vốn đầu tư:
+) Vốn cho đầu tư mới
+) Vốn cho đầu tư chiều sâu
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Tỷ đồng
35000
23200
11800
30000
20000
10000
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
B. Một số vấn đề đặt ra cho ngành công nghiệp Dệt May Việt nam trong quá trình hội nhập vào WTO
Sự ra đời và mục tiêu của WTO
Trước nhu cầu đẩy mạnh tự do hoá thương mại sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, 50 quốc gia đã trao đổi và xây dựng một kế hoạch thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO). Mục đích thành lập ITO là để giải quyết vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ thống Breeton Woods bên cạnh Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF). ITO cuối cùng không ra đời do điều lệ của nó không được một số quốc gia phê chuẩn. Tuy vậy, 23 trong 50 nước tham gia đàm phán đã ký kết Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1 năm 1948.
GATT chủ yếu điều chỉnh các lĩnh vực thương mại hàng hoá, và đã tạo ra một hệ thống thương mại đa phương vững mạnh, thịnh vượng, ngày càng tự do hoá thông qua tám vòng đàm phán. Vòng đàm phán thứ tám của GATT, vòng Uruguay kéo dài từ 1986 đến 1994, diễn ra trong tình hình thương mại thế giới đã trở nên phức tạp. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra; thương mại dịch vụ - lúc đó không có trong phạm vi điều chỉnh của GATT - trở thành vấn đề ngày càng được quan tâm; đầu tư quốc tế đã phát triển. Với sự tham gia của 123 nước, vòng đàm phán này đã thảo luận tất cả các lĩnh vực thương mại và dẫn đến sự ra đời của WTO với một hệ thống hiệp định mới và mang lại sự đổi mới lớn nhất trong hệ thống thương mại thế giới. Từ năm 1995, WTO không chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá mà cả thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
Như vậy, WTO là tổ chức kế thừa của GATT với các mục tiêu cơ bản sau:
Tự do hoá thương mại bằng cách xoá bỏ các loại rào cản và đảm bảo tính minh bạch, dự đoán được trong chính sách thương mại của các nước thành viên.
Làm diễn đàn để các thành viên đàm phán và ký kết các Hiệp định Thương mại.
Giải quyết tranh chấp thương mại.
II. Lộ trình cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng Dệt May của Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO
1. Hiệp định ưu đãi thuế quan phổ cập CEFT trong hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
CEFT là một thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan thương mại giữa các nước thành viên ASEAN xuống còn từ 0 - 5 (%), đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan khác trong vòng 10 năm, bắt đầu từ ngày 01/01/1993 và hoàn thành vào ngày 01/01/2003.
- Mặt hàng Dệt May bắt đầu thực hiện CEFT từ năm 1998. Cụ thể như sau:
Đối với vải sợi:
Các loại tơ, sợi , vải dệt có lớp phủ tráng được đưa vào thực hiện CEFT năm 1997 và bắt đầu thực hiện từ năm 1998. Trong số các mặt hàng này chỉ có khoảng 1/3 số mặt hàng là những mặt hàng có thuế suất 0 - 5%
Năm đưa vào thực hiện CEFT 1997, những mặt hàng có thuế suất t = 20%
Bước giảm dự kiến:
Bảng 7 : Biểu thuế đối với những mặt hàng có thuế suất t = 20%
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
t (%)
20
15
15
15
10
10
5
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Các loại tơ sợi tổng hợp hoặc sợi pha, lưới, vải các loại, lịch trình cắt giảm được chia thành 3 bước:
Bước 1: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1999, chủ yếu là các mặt hàng sợi đơn đã có thuế suất 5% nên thực tế ta không phải giảm thuế.
Bước 2: Thực hiện CEFT từ năm 2000, chủ yếu là các mặt hàng sợi xoắn có thuế suất 10%, một số mặt hàng sản xuất trong nước có khả năng phát triển nên tuy thuế suất là 5% nhưng cũng lùi lại bước này để tránh khả năng tăng thuế lên trên 5 % trước khi giảm.
Năm đưa vào thực hiện CEFT 2000 những mặt hàng có thuế là 10%
Bước giảm dự kiến:
Bảng 8 : Biểu thuế đối với những mặt hàng có thuế suất t = 10%
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
t (%)
10
10
10
10
5
5
5
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bước 3: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 2002 (trừ một số vải dệt, bông thì lùi tới năm cuối cùng để bảo hộ tối đa) gồm những mặt hàng có thuế từ 30% trở lên.
Năm đưa vào thực hiện CEFT: 2002, những mặt hàng có thuế từ 30 - 40%
Bước giảm dự kiến:
Bảng 9 : Biểu thuế đối với những mặt hàng Dệt May có thuế suất t = 30 - 40%
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
t(%)
40
30
20
10
5
30
20
20
10
5
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đối với mặt hàng may:
Được đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1998 những mặt hàng có thuế từ 50%
Bước giảm dự kiến:
Bảng 10 : Biểu thuế đối với những mặt hàng Dệt May có thuế suất là t = 50%.
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
t(%)
40
30
20
20
20
15
15
10
5
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
2. Hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam với EU giai đoạn 2000 - 2005:
Đối với thị trường EU thì hiện Việt nam đang được hướng thuế MFN nhưng phải chịu hạn ngạch. Từ nay đến năm 2004, EU vẫn duy trì hạn ngạch hàng Dệt May đối với các nước là thành viên của WTO, nên việc Việt Nam chưa ra nhập WTO không ảnh hưởng gì đến xuất khẩu hàng Dệt May sang thị trương EU.
Tuy nhiên từ năm 2005 trở đi, khi EU bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May cho các nước là thành viên của WTO mà vẫn giữ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May Việt Nam thì sẽ rất bất lợi cho Việt Nam. Do vậy hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam và EU giai đoạn 2000 - 2005 về lịch trình giảm thuế EU là rất quan trọng.
Cụ thể như sau:
Bảng 11 : Biểu thuế EU dành cho ngành Dệt May giai đoạn 2000 – 2005.
Mặt hàng
Thuế (%)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1.Sợi bông
20
18 - 10
17 - 10
16 - 5
15 - 5
12 - 5
5
2. Vải
40
38
34
30
24
20
5
3.May mặc
50
46 - 20
42 - 20
38 - 20
34 - 15
30 - 10
5
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ:
Hàng may mặc của Việt Nam hiện chưa bị Mỹ áp dụng hạn ngạch, hơn nữa lại hưởng thuế suất MFN. Trong thời gian này, Mỹ đang yêu cầu ký hiệp định song phương về hàng Dệt May với Việt Nam để áp dụng hạn ngạch đối vơí hàng Dệt May Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Do đó, Việt Nam cần tập trung xuất khẩu đến mức tối đa hàng Dệt May Việt Nam sang Mỹ để tạo cơ sở ấn định hạn ngạch thuận lợi.
Bảng 12 : Biểu thuế Mỹ dành ngành Dệt May khi có MFN và khi không có MFN.
Tên hàng
Thuế tối huệ quốc (MFN)
Thuế không MFN
Vải dệt
7 – 20%
45 – 113,5%
Hàng may mặc, dệt kim
3,6 – 20%
45 – 90%
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
III. Cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá qua hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập vào kinh tế thế giới, ngoài việc duy trì và bình thường hoá quan hệ với các định chế tài chính, ngân hàng quốc tế, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các tổ chức đa biên khác. Với việc tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam cam kết từng bước giảm thuế quan, xoá bỏ dần hàng rào phi quan thuế, mở rộng quyền kinh doanh của các công ty nước ngoài trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đồng thời thiết lập một khung pháp lý hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Những cơ hội của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để Việt Nam khắc phục tình trạng bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm qua cho thấy, việc tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và trên thế giới đã tạo cho Việt Nam một vị thế mới trong quan hệ thương mại quốc tế, khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử ở một số thị trường chủ yếu. Đây chính là một trong những điều kiện quan trọng góp phần mở đường cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường toàn cầu với một vị thế bình đẳng và thuận lợi hơn trong quan hệ kinh doanh với tất cả đối tác thương mại của các nước.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam và tạo điều kiện khai thác tốt hơn các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương.
Với việc được hưởng những ưu đãi thuế quan, phi quan thuế cũng như các ưu đãi khác được áp dụng trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thông quan hệ thương mại với các thị trường lớn. Hiện nay, các tổ chức kinh tế quốc tế có quy định dành những ưu đãi đặc biệt đối với các thành viên mới, đặc biệt là các nước đang phát triển hoặc đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Khi tham gia hội nhập, Việt Nam được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện nghĩa vụ mà các quốc gia phát triển đã là thành viên phải thực hiện.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Các hiệp định, chương trình hợp tác được thoả thuận trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM (như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, Chương trình hành động xúc tiến đầu tư Á - Âu, Kế hoạch hành động về tự do hoá đầu tư của APEC…) đều đặt ra mục tiêu quan trọng là từng bước xoá bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài nhằm tiến tới tự do hoá đầu tư theo lộ trình nhất định. Các thoả thuận về tự do hoá thương mại trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn nói trên cũng là nhân tố tích cực góp phần mở rộng thị trường thu hút đầu tư cho từng nước và toàn khu vực. Trên thực tế, mục tiêu quan trọng nhất của AFTA chính là nhằm thu hút đầu tư trực tiếp trong nội bộ khối và ngoài khu vực. Việc thực hiện AFTA cùng với Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) sẽ tạo ra một thị trường thống nhất, cho phép khai thác lợi thế kinh tế về quy mô, thị trường và nhều điều kiện thuận lợi khác cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thêm nữa, việc cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước, trong đó có cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm.
Với những yếu tố thuận lợi nói trên, tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam có điều kiện nâng cao sức cạnh tranh của môi trương đầu tư, nhất là trong bối cảnh cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên găy gắt. Bên cạnh đó, việc tham gia vào các chương trình hành động về xúc tiến đầu tư được thoả thuận trong hầu hết các tổ chức và diễn đàn nói trên cũng tạo điều kiện để Việt Nam nâng cao hiệu quả công tác vận động đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ tại Việt Nam.
Việc tăng năng lực xuất khẩu, mở rộng thị trường do được hưởng những ưu đãi và lợi thế trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới tạo điều kiện để Việt Nam phát triển một số ngành công nghiệp, dịch vụ và đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo thêm việc làm cho người lao động, thu hút và đổi mới công nghệ trong nhiều ngành kinh tế. Thực tiễn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua cho thấy, quan hệ thương mại đầu tư giữa Việt Nam với các nước ngày càng được mở rộng đã tạo thêm nhu cầu và khả năng phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ cho kinh doanh như: thông tin liên lạc, giao thông vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, tư vấn, quảng cáo… Các dịch vụ như: du lịch, giáo dục, y tế, nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật, văn hoá, giải trí… cũng phát triển cùng với việc mở rộng quan hệ nói trên. Ngược lại, sự phát triển của các ngành dịch vụ cũng góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Những thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập
Thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước được đánh giá là có khả năng canh tranh thấp. Sức mua và năng lực tích luỹ tái đầu tư, mở rộng sản xuất còn hạn chế. Trình độ kỹ thuật và công nghệ còn thấp so với thế giới trong khi nguồn vốn đầu tư phát triển không đủ đáp ứng nhu cầu… Điều này đã làm suy giảm đáng kể sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế ngay cả trong điều kiện Việt Nam đạt được cam kết mở cửa thị trường với các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, cam kết giảm thuế, xoá bỏ hàng rào phi thuế, cho phép doanh nghiệp nước ngoài được tiếp cận rộng rãi hơn ở thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư tại Việt Nam cũng đã đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước sức ép canh tranh rất lớn ngay tại thị trường trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng không có lợi thế so sánh và các mặt hàng từ trước đến nay vẫn được bảo hộ ở mức cao.
Thứ hai, hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô và pháp luật còn nhiều bất cập.
Để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải xây dựng hệ thống chính sách kinh tế, thương mại đồng bộ, phù hợp với những nguyên tắc của các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới. Yêu cầu này rất bức xúc trong bối cảnh hệ thống chính sách kinh tế, thương mại và đầu tư của Việt Nam còn nhiều bất cập, nhiều quy định không rõ ràng, thiếu nhất quán, nhất là hệ thống chính sách thuế quan và phi thuế quan. Nhiều biện pháp, chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại mà các tổ chức quốc tế thừa nhận nhưng lại chưa đưọc áp dụng ở Việt Nam (như chế độ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cân bằng cán cân thanh toán, quyền tự vệ, chống phá giá…).
Với tính chất là một hệ thống riêng, tương đối độc lập so với luật đầu tư trong nước, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa tạo ta một "sân chơi bình đẳng" giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài không chỉ đối với nhứng vấn đề có liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động của dự án đầu tư mà còn cả những vấn đề liên quan đến điều kiện đầu tư và chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư. Điều này chưa đáp ứng một số yêu cầu của các tổ chức, diến đàn kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là yêu cầu dành đối xử quốc gia cho nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, nhận thức chung về tiến trình hội nhập chưa đầy đủ.
Hiện nay, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, còn tư tưởng dựa vào hỗ trợ của Nhà nước. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy, khó khăn lớn nhất của Việt Nam trong việc xây dựng các cam kết về giảm thuế quan và xoá bỏ các biện pháp phi thuế đối với thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư là do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, luôn có yêu cầu bảo hộ ở mức độ cao. Bên cạnh đó, công tác phổ biến về hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua mặc dù đã có những nỗ lực song vẫn chỉ là bước đầu và chưa rộng khắp, chưa kịp thời.
3. Yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp Dệt May để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO.
3.1 Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam hội nhập vào WTO với những cơ hội và thách thức
Những cơ hội của ngành Dệt May khi Việt Nam gia nhập WTO:
Một là, xuất phát từ những lợi thế so sánh về lao động và thị trường thì ngành Dệt May Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nhanh và đóng góp nhiều hơn cho đất nước, do đó được Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển.
Hai là, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được thực hiện từ cuối năm 2001, trong đó hàng Dệt May chưa bị khống chế hạn ngạch sẽ có điều kiện phát triển mạnh vào thị trường Mỹ.
Ba là, xu thế chuyển dịch các đơn hàng Dệt May từ những nước kém an toàn (Pakistan, Inđônêxia…) sang Việt Nam ngày càng rõ nét.
Những thách thức của ngành công nghiệp Dệt May trong tiến trình hội nhập WTO:
Thứ nhất, sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp, kể cả chất lượng, hiệu quả và giá cả.
Thứ hai, việc bãi bỏ hạn ngạch cho các nước WTO và việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ làm Việt Nam (hiện chưa phải là thành viên của WTO) mất lợi thế cạnh tranh về xuất khẩu.
Thứ ba, việc thực hiện lộ trình giảm thuế AFTA/CEFT sẽ làm hàng Dệt May Việt Nam mất lợi thế bảo hộ tại thị trường nội địa.
3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp Dệt May
Từ những thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành công nghiệp Dệt May nói riêng, trong tiến trình hội nhập vào WTO, để đảm bảo cho ngành Dệt May Việt Nam đứng vững và phát triển, toàn ngành Dệt May nói chung và bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng cần phải thực hiện các yêu cầu chủ yếu sau:
Xác định chiến lược thị trường với sản phẩm mũi nhọn và thị phần cụ thể để từ đó tập trung mọi nguồn lực hướng vào thị phần tiêu thụ.
Tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm từ 20 - 30% so với hiện nay.
Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng chất lượng sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, đồng thời đầu tư cho công tác quản lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 14000, SA 8000.
Đầu tư mạnh vào công tác sáng tác mẫu mốt, thiết kế sản phẩm, từng bước xây dựng uy tín nhãn mác và thương hiệu cho doanh nghiệp.
Tổ chức tiếp thị một cách mạnh mẽ, sử dụng tối đa các hình thức tiếp thị và công cụ điện tử trong kinh doanh.
Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài và Việt kiều có tiềm lực, có kinh nghiệm trong việc sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới, liên kết sử dụng nhãn mác đã có uy tín trên thị trường và hợp tác đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Hợp tác và phân công hợp lý trong đầu tư và sản xuất, hạn chế tình trạng trùng lắp, dư thừa và cạnh tranh trong nội bộ; đồng thời hợp tác chặt chẽ trong các hoạt động quảng bá chung để xây dựng hình ảnh một "Ngành Dệt May Việt Nam có đẳng cấp chất lượng, uy tín và cạnh tranh".
Tổ chức tốt việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chuyên ngành Dệt May.
C. Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010
Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra với ngành công nghiệp Dệt May trong tiến trình hội nhập WTO nhằm phát huy những lợi thế và khắc phục những khó khăn của Ngành, ngành công nghiệp Dệt May cần triển khai một số các giải pháp chủ yếu sau:
I. Giải pháp về tài chính và vốn
Để triển khai kế hoạch theo mục tiêu đã nêu ở trên, ngành công nghiệp Dệt May cần thiết phải huy động một lượng vốn khoảng 35.000 tỷ đồng từ năm 2000 cho đến năm 2005 và 30.000 tỷ đồng cho giai đoạn 2006 - 2010. Đây là số vốn lớn, các doanh nghiệp Dệt May cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp huy động vốn sau đây:
Cần huy động mọi nguồn lực tự có trong công ty như khấu hao tài sản cơ bản, vốn có được bằng cách bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên,…
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, cần nghiên cứu khả năng phát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111137.doc