MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU 1
I. Giới thiệu về cà phê 1
1. Sơ lược về cà phê trên thị trường thế giới 1
2. Cà phê ở Việt Nam 1
II. Phân loại giống cà phê 2
1. Giống Arabica 2
2. Giống Robusta 2
3. Giống Chari 2
III. Cấu tạo qủa cà phê 2
CHƯƠNG II: QUY TRÌNH THU NHẬN CÀ PHÊ NHÂN 3
I. phương pháp ướt 3
1. Nguyên liệu: 5
2. Phân loại quả và tách tạp chất 6
3. Bóc vỏ quả(xát tươi) 6
4. bóc vỏ thịt (tách lớp nhớt) 7
5. Rửa cà phê 9
6. Làm ráo và làm khô 9
7.Tách tạp chất 11
8. Bóc vỏ trấu và vỏ lụa 11
9. Phân Loại cà phê nhân 12
10. Đóng bao và bảo quản 13
II. Phương pháp chế biến khô 14
1.Nguyên liệu 15
CHƯƠNG III : ỨNG DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC 17
CHƯƠNG IV : CÁC THIẾT BỊ TRONG THU HOẶCH CÀ PHÊ. 18
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2830 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Công nghệ thu hoạch nhân cà phê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vàng hoặc đỏ là cần thu hoạchdo qũa chín qúa sẽ bị rụng. Thường chín rộ vào tháng 12 và tháng 1. Ở Tây Nguyên chín sớm hơn khoảng 2-3 tháng so với miền Bắc.
2. Giống Robusta
Co ùnguồn gốc khu vực sông Côngô và miền núithấùp xích đaọ và nhiệt đới Tây châu phi. Robustacao từ 5-7m, quả hình trứng hoặc tròn, quả chín có màu đỏthẩm. Vỏ qủa cứng và dai hơn Arabica. Qủa chín từ tháng 2-4 ở miền Bắc vàtừ tháng 12-2 Tây Nguyên.Nhân hình tròn, to ngang,vỏ lụa màu ánh nâu bạc, nhân có màu xám xanh,xanh bạc, lượng cafin 1.5-3%.
3. Giống Chari
Có nguồn gốc ở Ubangui Chari, gần sa mạc Sahara.Cà phê mít cao 6 -15m, qủa hình trứng, hơi lồi và to. Thường chín vào tháng 5-7.
III. Cấu tạo qủa cà phê
Qủa cà phê gồm những phần sau:
Lớp vỏ qủa: là lớp vỏ ngoài,mềm,ngoài bì có màu đỏ khi chín.vỏ qủa cà phê chè mềm hơn cà phê vối và cà phê mít.
Lớp vỏ thịt: còn gọi là trung bì. Vỏ qủa cà phê chè mềm và ngọt hơn so với cà phê vối và cà phê mít, do đó dể xay xát hơn.
Vỏ trấu :nội bì. Vỏ trấu của cà phê chè dễ dập hơn.
Vỏ lụa : nằm sát nân ,mềm, mỏng, có màu sắc và đặc tính khắc nhau tùy vào loại cà phê. Vỏ lụa cà phê chè màu trắng bạcvà dễ tách ra khỏi nhân,vỏ lụa cà phê voiá và cà phê mít dễ dễ tách.
Nhân cà phê: ngoài cùng chứa những tế bào nhỏ, trong chứa chất dẻo và có những tế bào lớn hơn, mềm hơn.
Tỷ lệ thành phần cấu tạo của qủa cà phê:
Thành phần
Ca øphê chè
Cà phê vối
Vỏ qủa
43-45%
41-42%
Vỏ thịt
20-23%
21-22%
Vỏ trấu
0.6-7.5%
6-8%
Nhân và vỏ lụa
26-30%
26-29%
CHƯƠNG II: QUY TRÌNH THU NHẬN CÀ PHÊ NHÂN
Nguyên liệu chế biến cà phê nhân là qủa cà phê đã chín,được thu hoạch bằng máy hoặc bằng tay. Để làmra cà phê nhân người ta có hể áp dụng 2 phương pháp:
Phương pháp khô
Phương pháp ướt
I. phương pháp ướt
Pương pháp này người ta dùng những thiết bịvà qúa trình thích hợp để bóc lớp vỏ qủa và vỏ thịch, sau hai giai đoạn này, nhân cà phê còn bọc lớp vỏ trấu và vỏ lụa gọilà cà phê thóc ướt. Người ta dễ dàng làm khô cà phêthóc ướt đến độ ẩm thích hợpvà thu được bán thành phẩm là cà phê thóc khô.
Quy trình công nghệ
Phân loại quả và tách tạp chất
Tách tạp chất
Làm ráo và làmkhô kh06
rửa
Nguyên liệu
Bảo quản
Bóc vỏ quả
Bóc vỏ thịt
Nhân cà phê
đấu trộn, đóng bao
Phân loại theo kích thước, màu sắc, khối lượng
Bóc vỏ trấu và vỏ lụa
1. Nguyên liệu:
Cà phê hái cần đảm bảo độ chín đồng đều của trái vì trái xanh làm trực tiếp giảm chất lượng thức uống cà phê. Trái được hái cần đạt độ chín khi trái có 2/3 màu đỏ, lúc đó trái đã chín sinh lý đày đủ, sự hình thành phôi nhủ sừng đã ổn định và không thay đổithành phần sinh hoá.
Trong khi thu hái cà phê cần đảm bảo không làm rụng lá, nụ hoa đang hình thành để không ảnh hưởng đến mùa thu hoạch năm sau. Thông thừơng với cà phê Arabica vàRobusta, lúc trái chín thì nụ hoa đã hình và ở trạng thái tiềm sinh(domancy).Khoảng một tháng saukhi thu hoạch xong, nụ hoaphát triển và chuẩn bị nở.
Cà phê cần được hái từng tái chín, không hái từng chùm hay suốt(strip picking) lẫn trái còn xanh, vì trái xanh cho nhân nhỏ, màu đen khi phơi khô và vị đắng. Trong thực tế cà phê không chiín một đợt mà phải thu hoạch nhiều lần, do đó thường chứatỷ lệ trái xanh vượt quá 5% cho phép. Cần chú ý chỉ hái trái chín để nâng cao chất kượng sản phẩm.
Máy hái cà phê (havester) được sử dụng nhiều ở Brazin,Hawaii và Australia, vời năng suất tương đương100 công thu hoạch. Đầu tiên nó được thiết kế ở Hawaii và sau đuo7c5 cải tiến để không hái trái xanh. Loại máy này dùng hai trục quay, mỗi trục có nhiều cánh tay dài,khi chuyển động làm rung cành và tác động vào ngay cuống làm rụng trái. Đây là loại máy áp dụng rất tốt trên cà phê Arabica, dựa vào nguyên lýù lực tách rời trái (fruit removal force) tác động ngay vào phần cuống trái chín. Sau khi rụng, trái được chuyển ngay băng chuyền vào thùng chứa. Yêu cầu sử dụng cũa loại máy nàylà cần phải thiết kế hàng cây và khoảng cách cho phù hợp để máy di chuyển thuận lợi. Các nghiên cứu sử dụng máy hái trên cà phê Robusta còn hạn chế.
Ta có thể sử dụng biện pháp chín tập trung dể thu hái nhanh. Trong công nghệ thu hoạch, để thu háicà phê nhanh, việc sử dụng ethephon để làm trái chín đồng loạt và thu hái một lần. Các nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới đều sử dụng ethephon để llàm trái chín đồng loạt và giúp choviệc thu hoạch bằng máy được dể dàng.Ở Việt Nam sử dụng ethephon ở nồng độ 250 ppm cho vùng Đắc Lắc và Đồng Nai, nồng độ 500 ppm cho vùng Lâm Đồng giúp thu 80% trái cà phêb chín sau 15 ngày.
Trái cà phê sau thu hoạch cần được vận chuyển sớm về nơi chế biến. Trường hợp với khối lượng lớn cà phê tươi,cần phải trải thành một lớp trên nền sạch,khô ráo,thoáng,vớichiều dày từ 30-40 cm. Trái cà phê không nên đổ thành đống lớn, vì vỏ trái chín thường chứa nhiều nước và đường của chất keo cho nên dể lên men, nhiều mốc trắng mọc lên làm cho các acid hửu cơ hiiình thành đưa đến sự lên men acetic, butiric,dẫn đến vị uống chua và hôi. Ttrái cà phê đổ thành đống thường hô hấp rất mạnh và toả nhiệt làm bốc hơi nóng, tăng sự lên men quá mức đưa đến hiện tượng “bạc bụng” làm giảm phẩp chất cà phê nhân.
2. Phân loại quả và tách tạp chất
Khối quả thường có kích thước khắc nhau và lẩn nhiều tạp chất như cành lá, đất đá. Để tăng hiệu hiệu suất và năng suất của máy bóc vỏ quả, trước khi đưa nguyên liệu vào máy, phải phân loại quả và loại tạp chất. Để làm việc này người ta áp dụng 2 phương pháp kết hợp:
Dùng sàng để phân loại quả theo kích thước và tách tạp chất lớn.
Dùng bể xi phông để tách các tạp chất nặng như đất đá,kim loại và tạp chất nhẹ có kích thước tương tự như quả cà phê. Bể xi phông la một thùng lớn bănng2 kim loại hay bằng bê tông chứa đầy nước.Quả cà phê sau khi phân loại bằng sàng được cho vào bể. Tạp chất nhẹ sẽ nổi, tạp chất nặng sẻ chìm, còn quả cà phê có tỷ trọng xấp xỉ 1 lơ lửng trong nước. Hổn hợp nước và quả sẻ được dẩn vào máy bóc vỏ. Mặt khác do ngâm trong nước nên quả trở nên mềm vá dể bóc hơn.
3. Bóc vỏ quả(xát tươi)
Xát vỏ tươi nhằm loại trừ lớp vỏ chứa nhiều chất nhớt bên ngoài, còn lại vỏ trấu dính sắt vào hạt cà phê. Trrái cần sát vỏ trong vòg 24 tiếng sau khi hái. có 2 loại máy xát:máy xát hình trụ và máy sát hình đĩa.
Máy xát trụ Gosdon: Máy gồm một trục rỗng bằng kim loại quay nằm ngang và được bọc bằng một lớp đồng, có gai hình bầu dục như nút nhỏ. Một lớp vỏ ngang tròn bao lấy trụ để có thể điều chỉnh kích thước xát vỏ tươi. Trái cà phê tươi được cho vào một cái phểu lớn chạy qua trục ép và gai xé nhỏ vỏ trái ra, hạt sẽ được đưa ra miệng của máy và đi ra phía trước. Năng suất 500kg/giờ/miệng.
Máy xát đĩa: Gồm 4 đĩa dược lắp trên trục ngang, đĩa có gai như máy xát trụ. Hai bên đĩa có 2 tấm kim loại gọi là má điều chỉnh. Trái cà phê được ép vào giữa đĩa làm bóc vỏ. Số vòng quay của đĩa la120 vòng/phút. Năng suất tuỳ thuộc vào số đĩa. Khi trái bị bóc vỏ, hạt sẻ được đưa ra ống bên ngoài. Lượng nước cần là 15 m3 để xát một tấn trái. Năng suất máy là một tấn trái tươi/đĩa/giờ.
Máy xát tươi Raoeng: Máy gồm một trục rổng, trên bề mặt có nhiều đuờng gân nối chia làm 3 đoạn có tác dụng khác nhau. Đoạan đầu có đường gân xoắn như vít để đưa trái vào vị trí boc vỏ từ một cái phểu ở trên. Đoạn giữa là những đường gân nổi hình bình hành xé lớp vỏ trái, tách lớp thịt tráivà đẩy sang đoạn cuôí. Đoạn cuối gồm nhiều đường gân nối dài đánh nhớt và đẩy cà phê thocù ra phía ngoài. Ở ngoài trục có bộ phận lưới sàng bằng máy. Nước bơm áp lực từ bể xi phông chảy ra máy rửa nhớt và áp sut61 nhớt tron g ống trục đẩy vỏ trái qua mắt lưới ra ngoài.Máy này vừa bóc vỏ trái vừa đánh nhớt và rửa cà phê thóc. Số vòng quay của máy lớn hơn 50% so với máy xát đĩa. Lượng nước dùng cho máy này gp61 5-6 lần so với máy xát đĩa và máy xát trụ. Hiệu suất của 3 loại máy xát tươi như sau:
loại máy
Vỏ trái còn sót lại
Cà phê bị bóc vỏ trấu và dập
Cà phê sót nguyên trái
Arabica
Robusta
chari
Raoeng
Máy xát đĩa
Máy xát trụ
5-10
4-6
10-15
15
20
0-5
0-1
0-3
3-5
5-10
1-10
4. bóc vỏ thịt (tách lớp nhớt)
Lớp nhớt gồm chất keo, pectin không tan trong nước và chất đường, rất thuận lợi cho nấm mốc phát triển. Lớp nhớt này khi phơi khô cũng hút ẩm rất nhanh, vì vậy cần loại bỏ ngay khi xát tươi. Có 4 phương pháp chính để tách lớp nhớt:
a. Phương pháp lên men
Chủ yếu là tạo cho pectin ở chung quanh vỏ bóc được chuyển hoá với hoạt động của men lactic, không cho lên men axetic, butyric, men thối làm giảm chất lượng cà phê chế biến. Các enzym pectinase có trong lớp nhớt phân giải pectin, đồng thời pectin cũng bị thuỷ phân theo phản ứng sau:
Pectin + H2O galacturonic + acid acetic + lactose + arabinose + rượu metylic.
Các vi sinh vật có thể xúc tiến quá trình lên men, tuy nhiên cũng cần phát triển vi khuẩn lên men lactic, hạn chế các loại E.coli và nấm mốc.
Quy trìng lên men như sau:
Cà phê thóc sau khi lên men được dẩn tới bể ngâm bằng xi măng, có thể tích khoảng 10 m3 , cao 1-1.5 m.Tháo cho ráo nước,phía trên che bằng mái lá hoặc bao tải ủ cho tan rả lớp pectin. Trong quá trình lên men, cần chú ý đảo 2-3 lần/ngày để điều hoà nhiệt độ bên trong đống cà phê. Thời gian ủ cho Arabica từ 12-48 giờ, Robusca tư2-36 giờ, Chari từ 48-60 giờ. Trong quá trình lên men nhiệt độ cần duy trì từ 35o-42oC. Trong giai đoạn ủ, độ PH giảm từ 6.5-6.8 xuống 4.5-4.8.
Ủ cà phê có thể làm giảm chất lượng nếu:
Trái còn xanh, lựơng protopectin không hoà tan chứa nhiều tinh bột chậm phân huỷ, hạt màu tối.
Nước ngâm ủ không được sạch, nhiều vi sinh vật phân giải nitrat gây lên men thối, pH nước cao làm chậm quá trình lên men. Nhiều nước đọng, cà phê dễ bị thối.
Thời gian ngâm ủ lâu làm hạt cà phê bạc bụng.
Nhiệt độ lên men thấp cần ủ lâu hơn.
Ủ lâu quá độ cà phê có vị chua.
Phương pháp lên men áp dụng cho cà phê Arabica, tuy nhiên về sự tăng thêm chất lượng thì chưa rỏ.
b. Phương pháp hoá học
Các loại chất dùng tách lớp nhớt có thể dùng là Na2CO3 nồng độ 2% hoặc NAOH. Tuy nhiên phương pháp này ít được áp dụng vì ảnh hưởng xấu đến chất lượng cà phê, làm vị uống nhạt.
c. Phương pháp cơ giới
Phương pháp này được dùng rộng rãi bằng máy xát trục Raoeng, vừa xát lớp vỏ vừa xát lớp nhớt bao quanh lớp vỏ trấu. Máy gồm một vỏ kim loại có khe hở nhỏ, trụ có gờ xoắn ốc vận tốc quay từ 400-450 vòng / phút. Trái được đưa qua một cái phểu chạy vào trục xát nhiều vòng tách vỏ nhờn ra khỏi vỏ trấu. Yêu cầu của máy là hạt phải có kích thước đồng đều. Lưọng nước sử dụng lớn từ 3-9m3/giờ, năng suất trung bình tư‡50-3000 kg/giờ.
Phương pháp này ít hao hụt(tỷ lệ hao hụt là 2%) còn phương pháp ngâm ủ tỷ lệ hao hụt rất cao.
d. Phương pháp cơ hoá học
Người ta sử dụng hoá chất có tính kiềm để ngâm ủ cà phê sau khi bóc vỏ quả, sau đó dùng lực ma sát để làm sạch phần còn lại của võ thịt. Phương pháp này ít được áp dụng vì chất lượng cà phê nhân không cao.
5. Rửa cà phê
Mục tiêu là loại bỏ lớp chất nhớtđã lên men, tạp chất, vỏ trái còn dính vào vỏ thóc. Rửa cà phê còn ảnh hưởng rất quan trọng đến phẩm chất cà phê nhân vì nó tẩy sạch nhửng chất gây ảnh hưởng màu sắc hạt và mùi vị hạt lúc rang.
Rửa cà phê được tiến hành ngay trong bể ngâm ủ. Có thể dùng cách rửa cơ giới bằng nhiều cánh quạt ly tâm hay thủ công đánh hết lớp nhờn và tạp chất. Xả nước ra khỏi ống thoát của bể có lưới chắn để giử hạt cà phê thóc lại. Năng suất của máy rửa ly tâm là 5-6 tấn/giờ. Khối lượng nước cần nhiều, khoảng 10 lit nước cho 1kg cà phê.
Có thể rửa bằng máy lộ thiên, bằng cách cho dòng nước chảy qua và dùng cào để đánh rửa hạt.
6. Làm ráo và làm khô
Hàm lượng nước trong cà phê chiếm 50-60%, phần nước bám xung quanh từ 8-10%. Sấy trực tiếp thường làm hạt có màu xấu, giảm phẩm chất vì nhiệt độ cao, hạt cà phê như bị luộc chín tạo ra màu xanh thẫm. Ngược lại nếu đem phơi trên sân thường phải kéo dài thời gian và nấm mốc lại phát triển trên sân phơi.
Có 2 phương pháp cơ bản làm ráo cà phê thóc :
a. Phương pháp ly tâm
Có 2 phương pháp ly tâm: ly tâm gián đoạn và ly tâm liên tục. Ly tâm gián đoạn có 2 trục quay từ 100-200 vòng/phút làm bắn hạt nước ra ngoài lưới. Sau đó thùng được tháo ra để lấy cà phê ráo nước. Ly tâm liên tục gồm một bộ phận đưa hạt cà phê lên và đổ vào ống để ly tâm bắn nước qua thùng lưới. Máy loại này có năng suất cao, nhưng nhược điểm là làm hat cà phê bị vở và tróc vỏ trấu.
b. Phương pháp quạt
Cà phê thóc được trải rộng trên sàng lưới, dùng quạt gió thổi không khí từ dưói lên trên với vận tốc 10-15 m/s, trong thời gian từ 6-9 giờ, làm giảm được khoảng 90% lượng nước bao quanh hạt.
Có 2 phương pháp làm khô cà phê
a. Phơi cà phê
Cà phê thóc được phơi trên nhiều loại vật liệu như vải bạt, sân xi măng, sân phơi ximăng tiện lợi nhất. Cà phê thóc ướt cần dược phơi với tỷ lệ 10kg/m2. Sân phơi có độ dốc 1-2o, và thoát nước tốt. Lớp cà phê thóc được rải thành lớp dày từ 2-3cm. Lúc khô gom lại cao 4-5 cm.
Cần đảo lớp cà phê thóc bằng cào để hạt mau khô đồng đều và không làm nứt vỏ trấu. Hạn chế mặt dưới hạt quá ẩm. Thời gian phơi tuỳ thuộc vào nhiệt độ ban ngày, cường độ chiếu sáng, ẩm độ không khí và gió. Ở Việt Nam có thể phơi từ 3-4 nắng là khô. Aåm độ của hạt dược xác định đạt 12% là được.
b. Sấy cà phê
Sấy cà phê áp dụng cho nhửng nơi bị mưa kéo dài trong mùa thu hoạch, hợac làm khô nhanh hạt cà phê thóc.
Phương pháp sấy tĩnh: Phương pháp cổ điển kiểu Java là dùng lò sấy có quạt đẩy nhiệt vào ống dẩn. Một khung lưới có lổ được xây trên một sàn gạch. Cà phê thóc được cho vào một lớp hoặc hai lớp. Dùng cào để đảo hạt xà phê thóc. Cần chú ý không để hạt cà phê thóc quá dày(chỉ từ 5-8cm), thường theo tỷ lệ 30-35 kg/cm2. Phương pháp này có nhiều nhược điểm như toả nhiệt,khó điều chỉnh được nhiệ độ, hao nhiên liệu và tốn thời gian. Nhiệt độ ban đầu là 40-50oC kéo dài trong 4-6 giờ, tiếp theo là 65-70oC trong 3-4 giờ, 60-65oC trong 14-15 giờ và cuôií cùng là 50oC kéo dài trong 2-3 giờ. Cần tính toán hàm lượng nước trong mỗi giai đoạn sấy.
Phương pháp sấy tĩnh: Hiện nay trong các nhà máy lớn, phương pháp này được dùng nhiều. Có hai loại thường gặp là sấy bằng trống quay và sấy bằng tháp đứng.
Sấy bằng trống quay kiểu Gardiola
Máy gồm một ống hình trụ bằng tôn dày có đục lỗ, số vòng quay 2 vòng /phút. Trục chia làm 4 ngăn để chia hạt đồng đều. Gờ sắt trên thành trụ cuốn hạt cà phê lên cao rồi thả xuống giúp hạt cà phê được đảo liên tục. Khí nóng được đưa vào bằng những ống ở trung tâm xuyên qua ống trụ và hơi nứoc nóng được rút bay hơi. Thời gian sấy tuỳ thuộc vào lượng nước trong hạt, trung bình cần sấy từ 20-30 giờ. Năng suất máy từ 1-6 tấn cà phê thóc một đợt.
Sấy bằng tháp đứng:
Hạt cà phê thóc được đưa từ trên nóc vào lò, để hạt rơi tự do qua các thanh bản lắp giữa máy hình nón, còn hơi nóng thổi từ dưới lên. Hạt rơi xuống được múc và đổ lại. Máy gọn dễ sử dụng và dùng các nguyên liệu nhuư củi, than, dầu. Năng suất từ 10-13 tấn một đợt sấy. Máy có ưu điểm là thành phẩm hạt cà phê tốt, năng suất cao,dễ điều khiển. Nhược điểm là động cơ hoạt động nhiều do phải luân chuyển hạt nhiều lần.
7.Tách tạp chất
Tạp chất gồm kim loại và cành lá, vỏ vụn đặc biệt là lẩn các tạp chất lắng như đá, sỏi, kim loại sẻ làm máy bị hư hỏng.Để tách tạp chất người ta dùng sàng và nam châm tách kim loại.
8. Bóc vỏ trấu và vỏ lụa
Bóc vỏ trấu
Vỏ trấu cà phê chứa 25-35% khối lựơng cà phê thóc, lớp này rất cứng cần được xay bằng máy. Máy có một phễu cho cà phê vào. Một động cơ quay trục có gân bắt chéo xát hạt vào thành máy làm lớp vỏ tách rời ra. Hệ thống cánh quạt thổi vào lớp vỏ trấu ra một bên và hạt cà phê được dẫn vào một ống ra bên ngoài.
Năng xuất xát vỏ trấu đạt 500Kg/giờ. Máy lớn đạt 2.500Kg/giờ.
Các điều cần lưu ý khi sử dụng máy:
Aåm độ của hạt phải từ 10-12%. Nếu độ ẩm cao nhân cà phê bị dẹp, nếu nhâ quá khô hạt bị bể .
Xát vỏ không làm nát vụn, gãy hạt.
Hiệu suất một số máy xát vỏ thóc trình bày ở bảng 7.2
Bảng7.2 : so sánh hiệu suất của máy xát vỏ thóc.
Các loại máy
Vỏ trấu
Vỏ nát
Vỏ cò sót
Nhân nát ra ngoài
Hanxa
Các loại khác
5
5
2
5-6
1.5
2
1
1
Bóc vỏ lụa
Sau khi tach vỏ trấu cà phê còn lẫn vỏ lụa, chủ yếu là cenlullose. Vỏ lụa cần được tách đi bằng cách đánh bóng. Để hạt cà phê được đẹp mắt. Máy đánh bóng Smouth có một trục ma sát làm băng một hợp kim đặc biệt để đáng bóng lớp vỏ lụa bao quanh hạt cà phê. Máy đánh bóng vẫn giữ cho hạt không nóng quá 55oC và không lẫn vỏ trấu. Máy đánh bóng kiểu Ocarasa có 2 trục cũng được sử dụng nhiều.
9. Phân Loại cà phê nhân
Sau khi đánh bóng cà phê sô gồm nhiều cỡ hạt và tạp chất nhẹ nên cần phải phân loại. Sự phân loại được căn cứ trên các phương pháp sau :
a/ Phân loại theo kích thước: Có 2 loại sàng phân loại :
Sàng rung và sàng quay tròn.
Sàng rung : gồm nhiều tấm lưới đặt nghiêng có mắc lưới nhỏ khác nhau thông thường gồm 5 lớp, độ dốc lớn hơn 10o. Loại sàn được thiết kế theo cỡ 7mm, 6,3mm, 5,5mm, 4,7mm và 40mm. Sàng giữ lại hạt cà phê trên mặt sàn và đưa và ngăn chứa. Loại sàn này dễ lắp đặt và sử dụng.
Sàng quay tròn : có dạng hình trụ, gồm nhiều khoang có lỗ khác nhau quay quanh trục. Hạt cà phê sẽ được lọt qua khoang chuyển vào từng ngăn. Với số vòng quay 20-30vòng/phút. Năng suất cao 500-1000kg/h nhưng khó tháo lắp.
Cách phân loại theo kích thước hạt : tùy vào giống cà phê, cỡ hạt to nhỏ khác nhau. Phân loại ở Việt Nam dựa vào các loại sàng.
Hạt giữ lại trên sàng đường kính 6,3mm : hạt cấp R1
Hạt giữ lại trên sàng đường kính 5,5mm : hạt cấp R2
Phân loại của Pháp có 5 cấp.
b/ Phân loại theo tỷ trọng : tỷ trọng của hạt cà phê trung bình là 1,2-1,3. Loại máy phân loại theo tỹ trọng phổ biến là Katado. Nguyên lý của máy là dùng sức gió thổi hạt cà phê đang rơi ngược chiều từ trên xuống. Các hạt có tỹ trọng cao sẽ vượt qua sức gió rơi xuống dưới đáy và được dẫn qua sàng ra ngoài. Hạt nhẹ sẽ bị đẩy lên trên. Phần tạp chất nhẹ và bụi được đẩy ra ngoài qua 1 lớp lưới gắn phía trên. Quạt ly tâm có số vòng quay 500-620 vòng/phút. Vận tốc gió từ 13-15m/giây. Năng suất máy từ 500-600kg/h.
c/ Phân loại theo màu sắc
Mục đích của phân loại theo màu sắc là để hạn chế số hạt bị lỗi hạt đen, hạt nâu nhằm đạt được màu sắc đồng đều, tăng chất lượng cảm quan. Co thể phân loại màu sắc bằng phương pháp thủ công hay bằng máy. Phân loại bằng thủ công thường dùng sàng để nhặt hạt đen, hạt nâu, hạt biến màu. Có thể dùng băng chuyền để chọn, băng chạy với vận tốc 1,15m/giây. Mặt khác có thể phân chia 3 nhóm để nhặt : Nhóm 1 : màu hạt đen, nâu lẫn vỏ trái
Nhóm 2 : hạt cà phê màu nâu sậm có sâu đục hạt, hạt có đốm bạc.
Nhóm 3 : hạt xấu còn sót lại. Ngoài ra còn có thể đóng khung bàn để lựa hạt, mỡi khung có kích thươc1x2m. Năng suất lựa hạt là 50-60kg/người/ngày. Nếu đã qua phân loại bằng máy Katado, năng suất đạt tới 100kg/người/ngày. Phân loại bằng điện tử.Nguyên tắc phân lạoi dựa trên màu sắc qua một sàn đi qua tế bào quang điện, nhưng hạt đen hạt lỗi tích điện và bị đẩy xuống ngăn dưới. Phần còn lại được đưa qua một ống sàng và tiếp tục đước phân loại. Máy Máy Sortext Junson có năng suất 160kg/giờ. Máy EconotronicAllen của Mỹ có năng suất cao hơn khoảng 500kg/giờ.
10. Đóng bao và bảo quản
Cà phê thành phẩm được pha trôn lại cho đều mặt hàng. Có thể dùng phương pháp thủ công hay cơ giới để trộn hạt. Sau khi trộn, hạt được đưa vào bao nylong dày,bên ngoài là lớp bao gai có đóng dấu nơi sản xuất. Thông thường mổi bao nặng 60 kg. Tuỳ yêu cầu baothay đổi từ 50-80 kg. Sau khi được đóng bao cà phê nhân được cho vào kho bảo quản.
Cần lưu ý là nhân cà phê tiếp xúc với môi trường xung quanh, do đó vi sinh vây dể xâm nhập và phá hại làm hư hạt cà phê. Các điểm cần lưu ý khi bảo quản trong kho:
Aåm độ từ 10-12%.
Xếp bao cà phê trên nền lót bằng ván,để tránh hút ẩm , tránh xa vách tường.chuyển vị trí bao 2-3 tuần một lần.
Bảo quản trong kho có ưu điểm là có thể di động ít tốn bao bì và thời gian bảo quản lâu.
Kiểm tra chất lượng cà phê trong thời gian bảo quản
Kiểm tra nhiệt độ: do sự chênh lệch nhiệt độ trong bao cà phê và môi trường chung quanh. Nếu nhiệt độ trong khối cà phê caohơn cần chú ý sự phát sinh nhiệt của hạt. Mùa hè kiểm tra cách 5 ngày một lần, mùa đông một tuần một lần.
Độ acid: Kiểm tra độ acid do vi sinh phân huỷ đường tạo ra sự lên men chua hoặc do sự phân giải các chất dầu trong hạt cà phê. Thường kiểm tra hai tuần một lần.
Aåm độ của hạt:Thường xuyên kiểm tra ẩm độ của hạt một tuần một lần.
Kiểm tra màu sắc hạt:hạt đổi màu trắng do hình thành hợp chất chlorogenoquinone làm giảm hương thơm.
II. Phương pháp chế biến khô
Nguyên liệu
Làm khô quả cà phê tươi
Bóc vỏ quả khô và vỏ lụa
Phân loại theo kích thước, khôí lượng và màu sắc
Đấu trộn và đóng bao
Cà phê nhân
Bảo quản
1.Nguyên liệu
Cà phê tươi thu hoạch về làm khô quả.
Phơi khô tự nhiên: Trái được phơi khô ngay sau khi thu hoạch trên nhiều loại dụng cụ khác nhau như phên, tôn di động, nền đất, nền xi măng. Trái cà phê được trải thành lớp dáy 4-7 cm và đảo bốn lần một ngày để tránh đọng nước do mưa hoạc sương. Thường không nên phơi trên nền đất vì làm cho hạt có mùi đất.
Trên diện tích 1m2, thường được phơi 40 kg trái tươi. Nếu số lượng trái nhiều hơn có thể đưa dến ầm mốc, hạt nảy mầm và hình thành hạt đen. Diện tích phơi có thể tính bằng số cây được thu hoạch chia cho 20. Trong lúc phơi khi trtái đủ khô,thường lớp vỏ bên ngoài cứng, hàm lượng nước còn khoảng 12%thì lắc trái nghe kêu. Ở nhửng vùng mưa nhiều có thể sấy sau khi phơi sơ bộ.
Các điều cần chú ý khi phơi khô đề hạn chế giảm chất lượng:
Trải lớp mỏng khi trái còn rất ẩm,tăng dần bề dày khi trái khô dần và không cao quá 5cm.
Không để gặp mưa lúc phơi, hạn chế sự hút sương ban đêm rất nhiều.
Đảo nhiều lần trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thuy QT thuhoach caphenhan.Doc