Dịch vụ nông thôn phát triển phong phú, đa dạng và nhanh chóng như dịch vụ thương mại, tài chính, kỹ thuật nông nghiệp, thông tin, văn hóa. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn được tăng cường góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Tiêu biểu nhất là hệ thống thủy lợi, hệ thống giao thông nông thôn, bưu điện, trạm xá, trường học được từng bước xây dựng mới và cải tạo đáp ứng được yêu cầu cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4334 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Môn học tự chọn
Đề tài:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Hà Nội - 2006
Nông nghiệp, nông thôn, nông dân có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, Đảng ta khẳng định, trong giai đoạn hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy vậy, tùyv ào thời kỳ khác nhau, do mục tiêu kinh tế - xã hội khác nhau, do đó vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn cũng được nhận thức ở những mức độ khác nhau. Trong tình hình hiện nay, khi Việt Nam đang đứng trước cánh cửa WTO thì nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa hết sức quan trọng.
1. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt của thời kỳ quá độ ở nước ta. Điều này đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) khẳng định. Tại Đại hội này, nội dung tổng quát của công nghiệp hóa XHCN được Đảng ta xác định là: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) tiếp tục khẳng định lại những nội dung cơ bản mà Đại hội III đề ra. Trong đó vẫn ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, trên cơ sở phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Nhìn chung mô hình công nghiệp hóa do Đại hội III và Đại hội IV đề ra là chú trọng để phát triển công nghiệp nặng. Nông nghiệp, nông thôn chỉ xem xét ở mức độ nhất định. Sở dĩ như vậy là vì do yêu cầu của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện đất nước có chiến tranh. Mặt khác, mô hình này chịu sự ảnh hưởng của các nước XHCN, đứng đầu là Liên Xô (cũ).
Tầm quan trọng của nông nghiệp, nông thôn được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn tại Đại hội 5 (1982). Tại Đại hội này, những nội dung cơ bản về công nghiệp hóa XHCN được bổ sung hoàn thiện. Trong đó, đáng chú ý là Đảng ta đã nhấn mạnh cần phải đưa nông nghiệp lên nền sản xuất lớn XHCN. Tuy nhiên, do có những tư tưởng nóng vội, chủ quan, do bước đi không phù hợp nên trong nông nghiệp đã tiến hành ồ ạt phong trào hợp tác hóa, trong khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp phát triển rất thấp kém. Điều đó dẫn đến tình trạng là mặc dù một nước nông nghiệp nhưng lại phải nhập khẩu lương thực. Nông nghiệp, nông thôn nước ta nói riêng vẫn chưa phát huy được vai trò của nó và rơi vào khủng hoảng chung của nền kinh tế đất nước.
Cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 80 (thế kỷ XX) đặt ra cho Đảng ta cần phải tìm ra mô hình phát triển kinh tế đúng hướng, trong đó có mô hình công nghiệp hóa nói chung và công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (1986) đã đánh dấu quá trình đổi mới đất nước. Trong đó về nội dung công nghiệp hóa được cụ thể ở ba chương trình kinh tế lớn: Chương trình lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng; và hàng xuất khẩu. Ba chương trình kinh tế lớn đã thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ ở nước ta phát triển nhanh chóng. Nhờ đó đến năm 1983 nước ta đã trở thành một trong những nước xuất khẩu lương thực lớn nhất thế giới.
Những thành tựu kinh tế - xã hội mà nước ta đã giành được sau Đại hội 6 chứng tỏ đường lối đổi mới nói chung, trong đó có nông nghiệp, nông thôn nói riêng là hoàn toàn phù hợp với quy luật. Tiếp tục sự phát triển về tư duy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Đại hội VII, VIII đặc biệt là Đại hội IX và Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, nhận thức một cách có hệ thống về vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta khẳng định: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển công nghiệp và dịch vụ phải hướng vào phcụ vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn".
Như vậy, có thể khẳng định rằng, tư duy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được Đảng ta dần dần hoàn thiện. Tùy vào từng thời kỳ lịch sử khác nhau mà nhận thức đó được bổ sung, khắc phục và phát triển thêm từng bước.
2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Sở dĩ trong giai đoạn hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là vì:
Xét về phương diện lý luận: nông nghiệp là ngành kinh tế cung cấp các sản phẩm thiết yếu dùng làm tư liệu sinh hoạt cho con người và cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp chế biến ra các tư liệu sinh hoạt thiết yếu cho xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn làm cho năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, giá trị của các sản phẩm nông nghiệp giảm xuống, tức là giá trị các tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Mà giá trị tư liệu sinh hoạt này được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra chúng và bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra giá trị sức lao động của con người. Khi giá trị tư liệu sinh hoạt giảm xuống thì giá trị sức lao động cũng giảm xuống, do đó giá trị thặng dư tăng lên. Hay nói cách khác năng suất lao động nông nghiệp cũng tăng lên sẽ làm cho xã hội thu được khối lượng lợi nhuận lớn hơn. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là cần thiết.
Xét về phương diện thực tiễn: nông nghiệp, nông thôn cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến. Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn cho bản thân nó và cho ngành công nghiệp và dịch vụ.
Nông nghiệp, nông thôn là nơi cung cấp lao động cho các ngành công nghiệp và dịch vụ, là thị trường rộng lớn. Nông nghiệp góp phần tích luỹ vốn để phát triển kinh tế; cung cấp các mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao.
Kinh nghiệm thực tế ở một số nước như Achentina, Oxtraslia... cho thấy các nước này trở thành những nền công nghiệp hiện đại đều bắt đầu có những chính sách đúng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt là Đài Loan, những thành công về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước này có thể giúp Việt Nam rút ra những bài học bổ ích. Đó là:
Trước hết là bài học về tư duy: Đài Loan đã có nhận thức, đánh giá, nghiên cứu, điều tra cơ bản về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Tiếp đến là bài học về chính sách: Đài Loan nghiên cứu để chế định chính sách nông nghiệp phù hợp với hoàn cảnh con người, lãnh thổ kinh tế - xã hội, đồng thời luuôn biến đổi các chính sách đó theo sát sự phát triển mới.
Cuối cùng là bài học về hành vi (điều hành): Đài Loan định ra kế hoạch cụ thể, các biện pháp cụ thể để thực hiện các mục tiêu trong từng nước, từng giai đoạn. Ba bài học kinh nghiệm trên của Đài Loan cho thấy sự cần thiết phải hướng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo mô hình mở và liên tục sáng tạo, cần thiết phải nhận thức không ngừng, nhận thức liên tục và thay đổi liên tục, có như vậy tính sáng tạo mới càng cao. Đài Loan không coi sự chế định ra chính sách là đúng hoàn toàn và ngay như chủ trương, đường lối cũng vậy, đều dùng thực tiễn, lấy hiệu quả để soi xét. Như vậy Đài Loan đã nhanh chóng trở thành quốc gia có nền nông nghiệp phát triển và được xếp vào vùng lãnh thổ có nền công nghiệp hiện đại.
3. Những thành tựu và hạn chế của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong thời gian qua
Theo đánh giá của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) thì nông nghiệp, nông thôn nước ta đã có bước phát triển mới và đạt được những thành tựu to lớn. Điều đó thể hiện:
- Nhìn một cách tổng thể nông nghiệp nước ta đã cơ bản chuyển sang nền sản xuất hàng hóa. Một số sản phẩm có tỷ suất hàng hóa ngày càng cao như lúa gạo 50%, cà phê 95%, cao su 85%, chè 60%. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chiếm được thị phần lớn trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, thủy sản... Đã hình thành được nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa như sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cưu Long, cà phê ở Tây Nguyên... Tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ trong nông nghiệp ngày càng tăng. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 4,2%. Tuy nhiên nhiều vùng, nhất là vùng sâu, vùng xa sản xuất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, tự cung tự cấp là chủ yếu.
- Công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn bước đầu phục hồi và phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng, môi trường sinh thái và đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt. Theo thống kê tính đến 2002, cả nước có 27%. Số hộ nông dân vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm nghề phi nông nghiệp; 13% số hộ chuyên kinh doanh ngành nghề; có 40.500 cơ sở sản xuất, kinh doanh ngành nghề ở nông thôn; có hơn 1.000 làng nghề. Năm 2000 tổng giá trị của các ngành nghề nông thôn đạt 40.000 tỷ đồng. Hiện có hàng trăm cơ sở công nghiệp được xây dựng trên địa bàn nông thôn với đầy đủ các ngành nghề: chế biến nông - lâm - thủy sản (chiếm 32,5%); sản xuất vật liệu xây dựng (30,9%); các cơ sở công nghiệp nhẹ (15%) và điện cơ khí 12,8%.
Dịch vụ nông thôn phát triển phong phú, đa dạng và nhanh chóng như dịch vụ thương mại, tài chính, kỹ thuật nông nghiệp, thông tin, văn hóa... Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn được tăng cường góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Tiêu biểu nhất là hệ thống thủy lợi, hệ thống giao thông nông thôn, bưu điện, trạm xá, trường học được từng bước xây dựng mới và cải tạo đáp ứng được yêu cầu cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Quan hệ sản xuất từng bước được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. Hệ thống chính trị ở cơ sở được tăng cường... Những thành tựu đã đạt được trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển, ổn định kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy vậy, nông nghiệp, nông thôn nước ta còn gặp nhiều hạn chế, yếu kém. Nhất là khi nền kinh tế nước ta chuẩn bị gia nhập WTO thì nhiều thách thức lớn đang đặt ra cho nông nghiệp, nông thôn nước ta cần phải giải quyết. Những hạn chế đó thể hiện trên các mặt sau đây:
Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm, chưa theo sát với thị trường. Tình trạng nông dân hoang mang trước những biến động của thị trường còn phổ biến. Nhiều khoản đầu tư cho sản xuất nông nghiệp chưa kịp thu hồi vốn đã phải hủy bỏ để chuyển sang đầu tư vào lĩnh vực khác. Tình trạng đó đã làm cho nông dân ở nhiều vùng rơi vào cuộc sống khó khăn. Nguyên nhân của hạn chế này là do thiếu một quy hoạch tổng thể, đầu tư tràn lan, dàn trải; thiếu thông tin và dự báo kịp thời từ phía nhà nước và các chuyên gia. Về phía nông dân còn mang nặng tư tưởng sản xuất tự cung, tự cấp, đầu tư sản xuất kinh doanh theo "cảm tính", "phong trào"...
Thứ hai: Sản xuất nông nghiệp nhiều nơi còn phân tán, manh mún. Việc ứng dụng các biến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm. Do đó năng suất lao động nông nghiệp thấp, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp chưa theo kịp với các nước, kém hiệu quả và thiếu bền vững.
Hiện nay năng suất một số cây trồng của nước ta còn thấp, như: Ngô mới bằng 60% năng suất trung bình của thế giới và bằng 30% của Mỹ; chè bằng 54% thế giới. Theo nhiều khó khănết quả nghiên cứu cho thấy, để sản xuất ra 100 kg gạo, một nông dân Mỹ chỉ cần mất từ 15-20 phút đồng hồ. Trong khi đó để sản xuất 100 kg gạo, một nông dân của Việt Nam phải mất 10 ngày công. Tại Nhật bản 100m2 lúa đại mạch được trồng trong nhà kính với mọi điều kiện tối ưu đã cho năng suất bằng trồng ở 1 ha đất canh tác tự nhiên tương đối tốt. Một nông dân ở những nước có nèn nông nghiệp hiện đại (châu Âu) có thể tạo ra một lượng thịt và sữa cho nhu cầu của 80-100 người trong một năm. ở các nước đang phát triển như Việt Nam tỷ lệ này là 30-40 người...
Như vậy nhìn chung năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước. Trong khi đó các nước phát triển lại đang thực hiện chế độ trợ cấp nông sản ít nhất là đến 2013 (theo cam kết tại Hội nghị các Bộ trưởng Thương mại WTO cuối năm 2005 tại Hồng Kông). Nhiều nước khác sử dụng tiêu chuẩn kỹ thuật... để gây sức ép với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Đó là những trở ngại lớn cho nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời gian tới.
Thứ ba: Công nghiệp nông thôn nhất là công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản phát triển chậm. Công tác bảo quản sơ chế nông phẩm nhiều mặt còn yếu nhất là những thời kỳ sau thu hoạch. Nhiều sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam kém sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thậm chí có những sản phẩm nông nghiệp thua ngay trên "sân nhà".
Thứ tư: Ngành nghề ở nông thôn chưa thu hút được nhiều lao động. Tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn còn chiếm phần lớn. Đặc biệt là giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp (tính đến 2002 đạt 8%). Điều này không chỉ gây ra những khó khăn về kinh tế mà còn làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội ở nông thôn.
Thứ năm: Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở một số vùng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Tính đến 2002, cả nước còn có 415 xã (trong tổng số hơn 11.000 xã của cả nước) chưa có đường ô tô vào khu trung tâm; 30% đường giao thông huyện, 50% đường giao thông huyện không đi lại được trong mùa mưa; 55% dân cư nông thôn chưa được dùng nước sạch; có hơn 4.000 xã chưa có chợ. Điều này phản ánh một thực tế là những vùng này kinh tế hàng hóa chưa phát triển, sản xuất tự cung, tự cấp là chủ yếu, giao lưu kinh tế với các vùng khác rất hạn chế. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân thấp kém. Chênh lệch giữa những vùng này so với các vùng khác rất hạn chế. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân thấp kém. Chênh lệch giữa những vùng này so với các vùng khác đang gia tăng. Những khó khăn ở các vùng này đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định xã hội.
Sự phân tích, đánh giá trên đây cho thấy, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong thời gian qua nhưng cũng còn nhiều mặt yếu kém cần phải khắc phục. Nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì nhiều thách thức lớn hơn sẽ đặt ra cho nền nông nghiệp Việt Nam. Bởi vì so sánh tương quan giữa nền nông nghiệp nước ta và các nước còn có khoảng cách lớn và có lợi cho các nước có nền nông nghiệp hiện đại. Có thể nói rằng khi Việt Nam gia nhập WTO thì nông nghiệp, nông thôn, nông dân dễ bị tổn thương hơn. Chính vì vậy, cần phải có những giải pháp đồng bộ, kịp thời, linh hoạt để nông nghiệp nước ta phát triển tốt hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn theo vùng phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, con người theo hướng phát huy lợi thế từng vùng để phát triển nông nghiệp hàng hóa. Thực hiện chuyển đổi ruộng đất, dồn điền đổi thửa đối với những vùng sản xuất nông nghiệp đã ổn định theo Nghị định 84/CP trước đây. Mục đích là nhằm tập trung, tích tụ ruộng đất để nông dân có điều kiện tăng quy mô đầu tư, từ đó thúc đẩy kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phát triển, góp phần từng bước hoàn thiện công nghệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn.
Quá trình quy hoạch cần chú ý đến gắn kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh ở những vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo cho bà con nông dân có đất sản xuất nông nghiệp, ổn định cuộc sống, đảm bảo ổn định xã hội.
Việc quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp phải gắn với công tác quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến. Tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các vùng, các ngành để sản xuất hàng hóa.
Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải chú ý đến bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững.
- Tăng cường công tác thông tin thị trường, xúc tiến thương mại. Các cơ quan quản lý nhà nước cần có dự báo về những biến động của thị trường trong nước và thế giới. Mục đích là để đảm bảo ổn định sản xuất cho nông dân theo sát với thị trường. Tránh tình trạng nông dân phải sản xuất theo "phong trào", "theo đuôi" thị trường, gây thiệt hại về kinh tế cho nông dân.
- Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp. Thực hiện công nghiệp hóa sạch nhằm phát triển nông nghiệp bền vững. Muốn vậy cần phải đầu tư hiện đại hóa các Viện nghiên cứu, các trường đại học, các phòng thí nghiệm quốc gia. Có chế độ đãi ngộ thích hợp đối với đội ngũ các nhà khoa học; liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và nghiên cứu ứng dụng. Tranh thủ tiếp thu, lựa chọn những công nghệ hiện đại của nước ngoài phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong nước.
- Nhà nước tạo điều kiện về vốn, ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích mọi thành phần kinh tế và dân cư đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Tổ chức phân công lại lao động nông thôn theo hướng giảm dần tỷ lệ lao động nông nghiệp. Đầu tư đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn; phát triển ngành nghề truyền thống và du nhập ngành nghề mới trong nông thôn.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ và bảo hộ hợp lý một số mặt hàng nông sản có triển vọng nhưng còn gặp khó khăn để nông dân phát triển sản xuất, hạn chế rủi ro trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển nông nghiệp phải bó chặt chẽ với phát triển công nghiệp và dịch vụ. Nhất là công nghiệp chế biến xuất khẩu và dịch vụ sản xuất và xuất khẩu nông sản. Thực hiện phương châm "nông nghiệp và công nghiệp là hai chân của nền kinh tế"./.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khóa IX.
2. Nguyễn Đình Liêm, Ba bài học kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan Thuong.doc