MỤC LỤC
Mục lục 02
Phần mở đầu 03
Phần nội dung 04
Chương I: Trung gian tài chính 04
I.Khái niệm 04
II. Chức năng, vai trò 04
III. Vai trò 04
Chương II: Công ty tài chính 06
I.Khái niệm 06
II. Đặc điểm, tính chất 06
III.Phân loại 07
IV. Hoạt động của công ty tài chính 10
Chương III: Công ty bảo hiểm 15
I. Khái niệm 15
II. Vai trò 15
III. Phân loại 16
Chương IV: Phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức phi ngân hàng (Công ty tài chính và công ty bảo hiểm) 19
I. So sánh giữa tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng 19
II. So sánh giữa công ty tài chính và ngân hàng thương mại 22
Chương V: Vai trò của công ty tài chính và công ty bảo hiểm trong việc giải quyết các rào cản trong kênh tài chính trực tiếp 24
KẾT LUẬN 28
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5517 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công ty tài chính và công ty bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng thương mại
Các liên hiệp, hiệp hội tiết kiệm và cho vay
Các quỹ tín dụng
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
Công ty bảo hiểm
Các quỹ hưu trí
Các tổ chức trung gian đầu tư
Công ty tài chính
Các quỹ hỗ tương
Các quỹ tài chính của thị trường tiền tệ.
CHƯƠNG II: CÔNG TY TÀI CHÍNH
Khái niệm:
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng với chức năng sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm.
Đặc điểm, tính chất:
1. Phạm vi hoạt động:
Công ty Tài chính được mở chi nhánh, văn phòng đại diện trong nước, ngoài nước sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
Công ty Tài chính được thành lập công ty trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập để hoạt động dịch vụ tài chính, tiền tệ, môi giới, bảo hiểm, chứng khoán và tư vấn theo quy định của pháp luật.
2. Mức vốn pháp định:
Công ty tài chính có vốn pháp định, song vốn pháp định của công ty tài chính thấp hơn ngân hàng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, ngày 22/11/2006 của Chính phủ, công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ- CP của Chính phủ có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng; công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp
định là 500 tỷ đồng.
Phần vốn pháp định góp bằng tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả không được hưởng lãi mở tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày. Số vốn này chỉ được giải tỏa sau khi Công ty Tài chính khai trương hoạt động.
3. Thời hạn hoạt động:
Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp cần gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50.
4. Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại:
Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở mức độ thấp. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương mại nước ngoài và công ty tài chính nước ngoài mới được thành lập công ty tài chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được thành lập công ty tài chính liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn.
Công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty. Vì thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng.
Khi các quan hệ kinh tế trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là không lớn.
III. Phân loại: có 3 dạng công ty tài chính
Công ty tài chính bán hàng
Công ty tài chính tiêu dùng
Công ty tài chính doanh nghiệp
Công ty tài chính bán hàng
(Sale finance company)
Do các công ty sản xuất và bán hàng làm chủ sở hữu và thực hiện các khoản cho vay tài trợ cho khách hàng mua các sản phẩm, hàng hóa dịch vụ của chính công ty. Công ty tài chính bán hàng cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng về các khoản cho vay tiêu dùng và có được khá nhiều khách hàng vì các khoản cho vay này thường đựoc thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn tại các địa điểm mua hàng.
Các công ty tài chính này gián tiếp cấp tín dụng cho người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc từ một nhà sản xuất nào đó. Tín dụng được cấp dưới hình thức: các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho khách hàng theo hợp đồng mẫu do công ty tài chính loại này cung cấp, sau đó hợp đồng được bán lại cho công ty tài chính. Như vậy khoản nợ của khách hàng với nhà sản xuất hoặc nhà bán lẻ đã chuyển thành khoản nợ của khách hàng đối với công ty tài chính. Các công ty tài chính loại này thường do các công ty sản xuất hay các nhà phân phối bán lẻ (retailling or manufacturing company) thành lập nên nhằm hỗ trợ cho hoạt động tiêu thụ hàng hoá của mình. Ví dụ tại Mỹ, General Motors Acceptance Corporation chuyên tài trợ cho khách hàng mua ô tô của hãng GM.
Công ty tài chính tiêu dùng
(Consumer finance company)
Thực hiện các khoản cho vay cho khách hàng mua các loại hàng hóa cụ thể hay giúp đỡ chi trả các khoản nợ nhỏ. Các công ty tài chính tiêu dùng này là các doanh nghiệp riêng biệt hay do các ngân hàng là chủ sở hữu. các công ty này thường cho khách hàng không có khả năng vay từ các nguồn khác và định lãi suất cao hơn .
Công ty tài chính loại này cung ứng phần lớn nguồn vốn của mình cho các gia đình và cá nhân vay vào mục đích mua sắm hàng hoá tiêu dùng như các đồ đạc nội thất (giường, tủ…) và các đồ gia dụng (tủ lạnh, máy giặt…) hoặc sửa chữa nhà cửa. Hầu hết các khoản cho vay đều được trả góp định kỳ. Một cách cho vay khác là cấp thẻ tín dụng cho khách hàng để họ mua sắm ở hệ thống cửa hàng bán lẻ. Do các khoản vay của loại công ty tài chính này khá rủi ro nên công ty thường chỉ cho vay những khoản tiền nhỏ và với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường. Khách hàng của các công ty tài chính tiêu dùng vì vậy cũng thường là những người không thể tìm được khoản tín dụng từ những nguồn khác và do vậy họ thường phải chịu lãi suất cao hơn thông thường. Các công ty tài chính loại này có thể do các ngân hàng thành lập nên hoạt động độc lập dưới hình thức các công ty cổ phần.
Công ty tài chính doanh nghiệp
(Business finance company)
Cung cấp các hình thức ứng dụng chuyên biệt cho các doanh nghiệp bằng cách thực hiện các khoản cho vay và tài khoản mua bán với chiết khấu: dạng tín dụng này được gọi là factoring. Ngoài ra công ty tài chính doanh nghiệp chuyên môn hóa vào cho thuê trang thiết bị máy móc mà họ mua về và cho các doanh nghiệp vay trong một khoản thời gian nào đó.
Công ty tài chính loại này cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới các hình thức như: Bao thanh toán (Nghiệp vụ Factoring và Forfating) - Công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua lại (chiết khấu) các khoản phải thu của doanh nghiệp; Cho thuê tài chính (Nghiệp vụ Leasing) - Công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua các máy móc thiết bị mà khách hàng yêu cầu rồi cho khách hàng thuê, …
IV. Hoạt động của công ty tài chính:
Huy động vốn
Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế.
Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
Huy động tín dụng
Công ty Tài chính được cho vay dưới các hình thức:
Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật Các tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác.
Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
Công ty Tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân.
Công ty Tài chính và các tổ chức tín dụng khác được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác cho nhau.
Bảo lãnh
Công ty Tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Mở tài khoản và ngân quỹ
Mở tài khoản.
Công ty Tài chính được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi Công ty Tài chính đặt trụ sở chính và các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Công ty Tài chính có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước
Dịch vụ ngân quỹ.
Công ty Tài chính được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
Các hoạt động khác
Các nghiệp vụ khác được phép thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành, gồm:
Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác.
Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng.
Tham gia thị trường tiền tệ.
Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng.
Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp.
Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng.
Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng.
Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác.
Các nghiệp vụ được các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép
Hoạt động ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước xem xét, cấp giấy phép cho Công ty Tài chính được thực hiện một số hoạt động ngoại hối theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối.
Hoạt động bao thanh toán: Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm ban hành quy định hướng dẫn việc thực hiện hoạt động bao thanh toán và xem xét cho phép Công ty Tài chính có đủ điều kiện thực hiện hoạt động này.
Các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của công ty tài chính:
Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro
Công ty Tài chính phải dự phòng rủi ro và hạch toán khoản dự phòng rủi ro này vào chi phí hoạt động. Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Trường hợp không được cấp tín dụng
Công ty Tài chính không được cấp tín dụng đối với những đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 77 Luật Các tổ chức tín dụng, không được chấp nhận bảo lãnh của các đối tượng theo quy định trên để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng đối với khách hàng.
Trường hợp hạn chế tín dụng
Công ty Tài chính không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi cho những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật Các tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này không được vượt quá 5% vốn tự có của Công ty Tài chính.
Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của Công ty Tài chính không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của Công ty Tài chính theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Giới hạn góp vốn mua cổ phần
Mức góp vốn, mua cổ phần của Công ty Tài chính trong một doanh nghiệp; tổng mức góp vốn, mua cổ phần của Công ty Tài chính trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định.
Tổng số vốn của Công ty Tài chính đầu tư vào tổ chức tín dụng khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần phải trừ khỏi vốn tự có của Công ty Tài chính khi tính các tỷ lệ an toàn.
Các quy định bảo đảm an toàn
Công ty Tài chính phải tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn sau:
Duy trì tỷ lệ bảo đảm an toàn được quy định tại Điều 81 Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Mua và đầu tư vào tài sản cố định của mình không quá 50% vốn tự có của Công ty Tài chính.
Giới hạn cho vay đối với một khách hàng được quy định như sau:
+ Tổng dư nợ cho vay một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của Công ty Tài chính, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác;
+ Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của Công ty Tài chính hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì Công ty Tài chính được tiến hành cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.CHƯƠNG III: CÔNG TY BẢO HIỂM
I. Khái niệm:
Công ty bảo hiểm là trung gian tài chính thực hiện nhiệm vụ chi trả cho các sự kiện không mong đợi xảy ra. Là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng nhận bảo hiểm cho công chúng và sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Vai trò:
Khía cạnh kinh tế - xã hội:
Quỹ dự trữ bảo hiểm được thành lập để khắc phục hậu quả rủi ro tổn thất phát sinh làm thiệt hại đến con người và xã hội, bằng cách bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập và đảm bảo tính thường xuyên liên tục của quá trình XH. Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò như 1 công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cư và kinh tế.
Thúc đẩy ý thức đề phòng - hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội.
Công ty bảo hiểm tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho cả nền kinh tế góp phần đáng kể vào GDP của quốc gia, làm giảm thiệt hại về mặt kinh tế.
Khía cạnh tài chính:
Đối với người tham gia bảo hiểm:
Khi tham gia bảo hiểm, sẽ giúp cho bản thân và tài sản của người tham gia được bảo đảm bằng một khoản tiền xác định nào đó. Và nếu như có điều rủi ro xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm thì họ sẽ được các công ty bảo hiểm chia sẻ một phần nào đó khó khăn, giúp họ có khả năng tài chính để có thể vượt qua được khó khăn trước mắt.
Đối với các công ty bảo hiểm:
Bảo hiểm chính là một kênh tập trung vốn của các công ty bảo hiểm. Với số tiền mà khách hàng đóng vào, sẽ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào các ngành kinh doanh khác, mang lại lợi nhuận nhiều hơn, qua đó, giúp gia tăng khả năng tài chính của công ty, đồng thời bảo đảm nguồn tiền mặt đối với các hoạt động thường ngày của 1 công ty.
Đối với xã hội:
Bảo hiểm là một kênh luân chuyển tiền tệ của nền kinh tế. Nó tạo ra sự an tâm của các nhà đầu tư cũng như của dân chúng, thúc đẩy cho các hoạt động tài chính diễn ra một cách suông sẻ hơn. Bảo hiểm có thể coi là một trong những nhân tố giúp ổn định nền tài chính tiền tệ của một quốc gia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu các hoạt động kinh doanh bảo hiểm không rõ ràng và minh bạch, có thể tạo ra những tác động xấu, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế
Sau ngân hàng thương mại thì các công ty bảo hiểm cũng được nhắc tới như những trung gian tài chính có khả năng huy động lượng vốn nhàn rỗi khổng lồ từ dân cư từ đó cung cấp vốn cho nền kinh tế. Các công ty bảo hiểm cũng có thể được coi như những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, giúp thị trường tài chính tiền tệ hoạt động ổn định và có hiệu quả.
Phân loại:
Có 2 dạng công ty bảo hiểm:
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Phát hành bảo hiểm chủ yếu liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người.
Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn
Bảo hiểm cho một loạt các sự kiện không định trước khác nhau liên quan đến tài sản như:
Mất mát, hư hỏng tài sản.
Mất hay thiệt hại khả năng tạo thu nhập của tài sản.
Thiệt hại hay thương tật gây ra cho chủ thể thứ ba.
Thiệt hại hay thương tật do tai nạn nghề nghiệp.
Trong thực tế, phần lớn các công ty bảo hiểm lớn thường bán cả 2 loại sản phẩm dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản.
Hoạt động:
Các công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm để thành lập nên quỹ bảo hiểm phục vụ cho mục đích bồi thường. Do hầu hết các khoản phí bảo hiểm đều được thu hết trước khi bồi thường nên công ty bảo hiểm có một khoảng thời gian từ dưới 1 năm cho tới hàng chục năm để sử dụng quỹ bảo hiểm. Tiền trong quỹ bảo hiểm khi chưa dùng để bồi thường sẽ được đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản hoặc thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính khác như góp vốn liên doanh, thành lập công ty chứng khoán, cung cấp các khoản tín dụng trực tiếp...
J Điểm khác biệt giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản
- Đối với công ty bảo hiểm nhân thọ và sinh mạng, mức độ tử vong của công chúng nói chung là có thể dự báo được với độ chắc chắn cao. Do đó công ty bảo hiểm có thể dự đóan chính xác số tiền thanh tóan trong tương lai. Từ đó các công ty bảo hiểm nhân thọ thường giữ các tài sản tài chính dài hạn có tính thanh khỏan không cao lắm (trái phiếu, cổ phiếu công ty, các món cho vay thương mại có thế chấp)
- Đối với công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn thì chính sách đầu tư bị tác động bởi các yếu tố tính ngẫu nhiên thất thường của các sự kiện rủi ro, thiên tai và phụ thuộc vào tính không chắc chắn của từng trường hợp bán bảo hiểm. Do vậy các tài sản đầu tư của công ty phần lớn là các trái phiếu địa phương hay chính phủ không chịu thuế và có tính thanh khỏan cao để có khả năng đáp ưng kịp thời với các khỏn thanh toán không dự tính trước.
Đôi khi với các khỏan bảo hiểm tài sản quá lớn, các công ty thường hợp tác liên kết với nhau để phân chia rủi ro.
CHƯƠNG IV: PHÂN BIỆT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC TỔ CHỨC PHI NGÂN HÀNG
( CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ CÔNG TY BẢO HIỂM )
So sánh giữa tổ chức ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Nguồn vốn:
Ngân hàng:
Khoản vốn tự có ban đầu.
Các khoản tiền gửi của khách hàng.
Các khoản tiền đi vay (từ Ngân hàng Nhà nước, . . .)
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
Khoản vốn tự góp, các quỹ trợ cấp.
Từ các hợp đồng bảo hiểm với khách hàng.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn của tổ chức và dùng số tiền thu được này đi cho vay.
Khác biệt cơ bản là chỉ có NGÂN HÀNG được nhận tiền gửi từ khách hàng (người dân).
Hoạt động:
Ngân hàng (Ngân hàng thương mại):
Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài.
Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây:
Cho vay.
Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác.
Bảo lãnh ngân hàng.
Phát hành thẻ tín dụng.
Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế.
Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
Cung ứng các phương tiện thanh toán.
Cung ứng các dịch vụ thanh toán sau đây:
Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ.
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Tóm lại: các Ngân hàng thương mại chịu sự quản lí của Nhà nước và chịu ràng buộc về tiền gửi dự trữ và bảo hiểm các khoản cho vay. Đồng thời phải tạo lập khoản dự trữ bắt buộc.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
Hoạt động không bị quản lí chặt chẽ như Ngân hàng.
Các tổ chức này thường đầu tư vào Bất động sản, cổ phiếu hay thương phiếu.
Không phải tạo lập khoản dự trữ bắt buộc.
Chức năng:
Ngân hàng:
Có chức năng trung gian thanh toán.
Có thể nhận tiền gửi và xoay vòng đồng tiền.
Có thể đem cho vay qua các hoạt động của Ngân hàng, khi đó tạo ra 1 hệ số nhân tiền.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
Không có chức năng là trung gian thanh toán.
Bảng tóm tắt:
Đặc điểm
Ngân hàng
Phi ngân hàng
Nguồn vốn
Khoản vốn tự có ban đầu.
Các khoản tiền gửi của khách hàng.
Các khoản tiền đi vay (từ Ngân hàng Nhà nước,…)
Khoản vốn tự góp, các quỹ trợ cấp.
Từ các hợp đồng bảo hiểm với khách hàng.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn của tổ chức. Và dùng số tiền thu được này đi cho vay.
Hoạt động
Chịu sự quản lí của Nhà nước và chịu ràng buộc về tiền gửi dự trữ và bảo hiểm các khoản cho vay.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài.
Phải tạo lập khoản dự trữ bắt buộc.
Hoạt động không bị quản lí chặt chẽ như Ngân hàng.
Các tổ chức này thường đầu tư vào Bất động sản, cổ phiếu hay thương phiếu.
Không phải tạo lập khoản dự trữ bắt buộc.
Chức năng
Có chức năng trung gian thanh toán.
Có thể nhận tiền gửi và xoay vòng đồng tiền.
Có thể đem cho vay qua các hoạt động của Ngân hàng, khi đó tạo ra 1 hệ số nhân tiền.
Không có chức năng là trung gian thanh toán.
So sánh giữa Công ty tài chính và Ngân hàng thương mại:
Đặc điểm
Công ty tài chính
Ngân hàng thương mại
Bản chất và phạm vi hoạt động
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm
Tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Mức vốn
pháp định
Thấp
Cao
Hoạt động
Chủ yếu là huy động những khoản tiền lớn rồi chia ra để cho vay những khoản nhỏ.
Gần như không bị điều hành chặt bởi Chính phủ => phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng hơn là các ngân hàng.
Chủ yếu là tập hợp các khoản tiền gửi nhỏ để cho vay các khoản tiền lớn.
Bị quản lí chặt chẽ bởi Chính phủ.
Thời gian hoạt
động
Tối đa là 50 năm
Không bị khống chế
Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại
Áp lực cạnh tranh ở mức độ thấp
Huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty.
Rủi ro chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng.
Không được làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm
Áp lực cạnh tranh ở mức độ cao
Hoạt động rộng và huy động vốn chủ yếu từ công chúng
CHƯƠNG V: VAI TRÒ CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ CÔNG TY BẢO HIỂM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC RÀO CẢN TRONG KÊNH TÀI CHÍNH TRỰC TIẾP
(CÁC VẤN ĐỀ CHI PHÍ GIAO DỊCH, THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG, RỦI RO ĐẠO ĐỨC )
Trong hợp đồng bảo hiểm, rủi ro đạo đức xảy ra khi hợp đồng bảo hiểm ( cố tình hay vô tình ) khuyến khích bên được bảo hiểm nhận lấy rủi ro làm tăng khả năng được thanh toán tiền bảo hiểm theo hợp đồng. Công ty cần phải chọn lựa đối tượng bảo hiểm bời vì chính những người có khả năng lớn nhất nhận được tiền bồi thường là những người muốn mua bảo hiểm nhất. Do vậy, khi bán bảo hiểm cho những người này công ty bảo hiểm đã có những tổn thất tiềm năng lớn. Rủi ro lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức tạo ra những khoản thanh toán chi phí hợp đồng cao từ các khiếu nại đòi bồi thường bảo hiểm. Do đó cần có những biện pháp giảm thiểu rủi ro gồm tám nguyên tắc chung sau:
1. Sàng lọc:
Các công ty bảo hiểm cố gắng chọn lọc hững người bảo hiểm tốt khỏi các đối tác kém. Để thực hiện việc này cần phải có phương pháp tập hợp và phân tích thong tin có hiêu quả.
Ví dụ: Nếu là bảo hiểm sinh mạng thì bạn phải trả lời một loạt câu hỏi liên quan tới sức khỏe, các bệnh tật đã qua trong quá khứ, thói quen hút thuốc uống rượu, xét nghiệm máu.
Giống như ngân hàng tính điểm xếp hạng tín dụng đánh giá các khách hàng đến vay tiền, công ty bảo hiểm cũng dung những thôn tin để quy bạn vào một cấp rủi ro theo một phép thống kê đặc trưng. Dựa vào đó công ty bảo hiểm sẽ quyết định chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu bảo hiểm.
Phí bảo hiểm rủi ro hợp lí:
Công ty bảo hiểm sẽ thu phí với từng mức độ rủi ro của người được bảo hiểm.
Các điều khoản hạn chế:
Các điều khỏan hạn chế trong hợp đồng bảo hiểm là công cụ giảm thiểu rủi ro đạo đức trong bảo hiểm. Các điều khoản này làm cho người giữ hợp đồng bảo hiểm nản lòng mà không thực hiện các hoạt động rủi ro để công ty bảo hiểm phải bối thường.
Ví dụ: Công ty bảo hiểm sinh mạng có những điều khoản cụ thể trong hợp đồng loại bỏ tiền trợ cấp tử tuất nếu người bảo hiểm tự tử.
Phòng ngừa gian lận:
Có trường hợp các cá nhân được bảo hiểm cố ý gian dối và tìm cách khiếu bại đòi bồi thường bảo hiểm mặc dù các khiếu nại này là vô căn cứ. Do vậy, các công ty bảo hiểm luôn phòng ngừa các trường hợp này. Chỉ có những người được bảo hiểm hợp lí và có căn cứ mới được thanh toán.
Hủy bỏ hợp đồng:
Một phương pháp hạn chế rủi ro đạo đức khác là sẵn sàng hủy bỏ hợp đồng nếu người được bảo hiểm đang có hoạt động vi phạm các điều khoản hợp đồng.
Khấu trừ :
Khoản tiền cố định trừ bớt ra từ chi phí thiệt hại thanh toán cho người đựoc bảo hiểm. Khoản khấu trừ này có thể dưới dạng số tiền cố định hay phần trăm chiết khấu. Khoản khấu trừ là công cụ hỗ trợ quản trị rủi ro đạo đức trong bảo hiểm.
Ví dụ:
Khấu trừ 250$ trong hợp đồng bảo hiểm có nghĩa là khi bạn thiệt hại 1000$ trong tai nạn ôtô thì bạn chỉ được công ty thanh toán 750$.
Như vậy, khoản khấu trừ làm cho người được bảo hiểm hành động theo hướng phù hợp với lợi ích của công ty. Rủi ro đạo đức giảm nên chi phí bồi thường cho các hợp đồng bảo hiểm giảm.
Đồng bảo hiểm:
Khi người được bảo hiểm cùng gánh chịu 1 tỷ lệ phần trăm nhất định tổn thất với công ty bảo hiểm thì quá trình dàn xếp này gọi là đồng bảo hiểm.
Ví dụ: Trong chương trình bảo hiểm y tế, công ty bảo hiểm nhận chi trả 80% và người được bảo hiểm chi trả 20% hóa đơn thanh toán dịch vụ y tế.
Giới hạn số tiền thanh toán bảo hiểm:
Đây là quy tắc rất quan trọng trong quản lý bảo hiểm. Số tiền thanh toán bảo hiểm phải có giới hạn mặc dù khách hàng có thể sẵn sàng chi trả nhiều hơn để có thêm tiền bồi thường. Tiền thanh toán bảo hiểm càng lớn thì người được bảo hiểm càng dễ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công ty tài chính và công ty bảo hiểm.doc