PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
3. Mục đích đề tài
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT NAM
1.1 Khái quát chung về quyền tác giả
1.2 Khái niệm hành vi xâm phạm quyền tác giả
1.3 Đặc điểm hành vi xâm phạm quyền tác giả
1.4 Trách nhiệm pháp luật đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ VÀ CÁC BIỆN PHÁP HIỆN NAY
2.1 Thực trạng vi phạm quyền tác giả hiện nay
2.2 Thực trạng tuân thủ quyền tác giả đối với sinh viên
2.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả
2.4 Giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên với vấn đề bản quyền
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
19 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/02/2022 | Lượt xem: 2880 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận cuối kỳ Vi phạm quyền tác giả ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vệ quyền tác giả bằng biện pháp dân sự trở thành cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phổ biến và hữu hiệu nhất.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT NAM
1.1 Khái quát chung về quyền tác giả
Quyền tác giả hay tác quyền là bản quyền hoặc độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) không bị vi phạm bản quyền, ví dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Một phần người ta cũng nói đó là sở hữu trí tuệ (intellectual property) và vì thế là đặt việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ song đôi với nhau, thế nhưng khái niệm này đang được tranh cãi gay gắt. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất.
1.2 Khái niệm hành vi xâm phạm quyền tác giả
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành không có khái niệm chung để chỉ các hành vi xâm phạm quyền tác giả mà các hành vi này được liệt kê tại Điều 28 Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 như:
Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Quyền tác giả là quyền độc quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm của mình. Do vậy, hành vi chiếm đoạt quyền tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học là hành vi vi phạm.
Mạo danh tác giả. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng là một trong các quyền nhân thân của quyền tác giả. Việc mạo danh tác giả là trái với quy định này.
Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Khi đó, người nào công bố, phân phối tác phẩm mà không được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì sẽ bị coi là hành vi vi phạm quyền tác giả.
Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả. Đồng tác giả là hai hay nhiều người cùng sáng tạo ra tác phẩm. Họ có quyền tác giả đối với tác phẩm như nhau, và có quyền riêng đối với phần mà học trực tiếp sáng tạo. Vì vậy khi công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả thì phải có sự đồng ý của tất cả các đồng tác giả đó.
Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả là quyền nhân thân thứ tư được quy định trong luật. Các quyền của quyền tác giả được pháp luật bảo hộ.
Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên không phải hành vi sao chép nào cũng là hành vi vi phạm. Việc tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân hay sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu không bị coi là hành vi vi phạm quyền tác giả. Hành vi sao chép tác phẩm nhằm mục đích kinh doanh (ví dụ như quán photocopy sao chép để bán cho người khác) là hành vi vi phạm.
Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Làm tác phẩm phái sinh là một trong các quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Họ được phép độc quyền thực hiện quyền này hoặc cho phép người khác thực hiện. Vì vậy, khi không được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì hành vi làm tác phẩm phái sinh này là trái với quy định của pháp luật.
Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật. Pháp luật quy định tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một hay một số quyền tài sản của của tác giả thì phải trả tiền thù lao, nhuận bút. Tuy nhiên có một số trường hợp không phải trả thù lao như sau: Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu; Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại; Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu; Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào; Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó; Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. Tác phẩm cũng là đối tượng của hợp đồng thuê. Do vậy, khi thuê tác phẩm, bên thuê có nghĩa vụ trả tiền nhuận bút, thù lao và các lợi ích khác cho bên cho thuê. Việc vi phạm nghĩa vụ sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Các hoạt động liên quan đến phân phối, sao chép tác phẩm đều phải có sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Xuất bản tác phẩm là hành vi công bố, phân phối tác phẩm. Do đó phải được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình. Quyền tác giả được pháp luật bảo hộ trên cơ sở hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tự mình tiến hành các biện pháp tự bảo vệ. Tất cả các hành vi gây cản trở đến việc bảo vệ tác phẩm đều là hành vi vi phạm pháp luật.
Cố ý xoá, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm. Đây là hành vi xâm phạm thông tin của tác phẩm. Tác phẩm được bảo hộ một cách tuyệt đối về mặt hình thức.
Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo. Lúc này tác phẩm không còn là tác phẩm của chính tác giả đó nữa. Chính việc giả mạo chữ ký của người khác đã là hành vi vi phạm pháp luật nên làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo là hành vi vi phạm quyền tác giả.
Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Bản chất của hành vi này là hành vi công bố, phân phối tác phẩm không được sự cho phép của tác giả.
1.3 Đặc điểm hành vi xâm phạm quyền tác giả
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và hành vi xâm phạm quyền tác giả nói riêng là một loại của hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi xâm phạm quyền tác giả mang các đặc điểm chung của hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời mang những đặc điểm riêng có.
Chủ thể của hành vi xâm phạm quyền tác giả phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình. Đây là đặc điểm của các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền tác giả phải gánh chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và thâm chí trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm của mình.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả phải là hành vi thực tế (cố ý hay vô ý) của cá nhân, tổ chức đối với đối tượng được bảo hộ quyền tác giả. Các hành vi này là xử sự thực tế của các cá nhân và tổ chức xác định.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả không chỉ gây tác hại chủ quyền của đối tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã hội.
1.4 Trách nhiệm pháp luật đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả
Theo Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
- Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
- Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Có tổ chức;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
- Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
- Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm."
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ VÀ CÁC BIỆN PHÁP HIỆN NAY
2.1 Thực trạng vi phạm quyền tác giả hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, thực trạng xâm phạm quyền tác giả xảy ra khá phổ biến, rộng khắp các lĩnh vực: Báo chí, xuất bản, âm nhạc, phát thanh truyền hình, biểu diễn, trên mạng internet Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số và internet đã mang đến những tiện ích mới cho người sử dụng nhưng cũng mở ra các lối đi khác cho nạn xâm phạm bản quyền ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.
Mặc dù pháp luật Việt Nam hiện hành về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu về bảo hộ quyền tác giả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, nhưng trên thực tế tình trạng xâm phạm quyền tác giả trong môi trường Internet tại Việt Nam hiện nay vẫn còn ở mức độ rất phổ biến. Hành vi xâm phạm quyền tác giả nói chung, trên môi trường Internet nói riêng diễn ra đối với tất cả các loại hình tác phẩm, từ tác phẩm văn học, khoa học đến tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, chương trình máy tính Các hành vi xâm phạm quyền cũng rất đa dạng, từ xâm phạm quyền tài sản như quyền sao chép, quyền truyền đạt, phân phối tác phẩm đến quyền nhân thân như quyền công bố tác phẩm, quyền bảo vệ sự vẹn toàn của tác phẩm Các hành vi xâm phạm ngày càng tinh vi hơn với việc khai thác sự phát triển của công nghệ (Pear to Pear: P2P, Bit Torrent, Cyberlockers).
Theo Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg về việc tăng cường quản lý thực thi và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan (quyền tác giả) của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch trong năm 2009, lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã thu giữ 649.324 băng đĩa các loại và 3885 bản sách. Tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính là 11,500,510,000 VNĐ. Trong hai năm 2010 – 2011, thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 227,000,000 VNĐ đối với các công ty có các website lưu trữ, cung cấp và phổ biến đến công chúng số lượng lớn các bản ghi âm không được sự cho phép của chủ sở hữu quyền. Trong năm 2013, thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính với số tiền 2,033,000,000 VNĐ và yêu cầu ba website tháo gỡ hàng nghìn bộ phim vi phạm bản quyền của sáu hãng phim lớn của Mỹ. Thanh tra Bộ VHTTDL cũng đã tiếp nhận 60 đơn thư khiếu nại có liên quan đến tranh chấp quyền tác giả đối với 142 đầu sách của 25 nhà xuất bản. Đó là chưa kể đến các trường hợp xử lý ở các địa phương.
Những số liệu trên chỉ phản ánh một phần rất nhỏ thực trạng xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam. Trên thực tế, với khoảng 400 website có sử dụng video (phim và nhạc) tại Việt Nam, trong đó phần lớn tác phẩm được sử dụng trái phép thì có thể thấy số lượng tác phẩm bị vi phạm quyền tác giả sẽ rất lớn. Thực tế việc sao chép, đăng tải lại các bài báo trên các báo điện tử, các website còn rất phổ biến tại Việt Nam.
Tuy nhiên, đây không phải là tình trạng cá biệt ở Việt Nam mà còn là tình trạng chung tại rất nhiều quốc gia.. Ví dụ tại Hàn Quốc, trong năm 2011, có khoảng 2,7 tỉ nội dung các loại hình sao chép lậu (online và truyền thống), thất thoát khoảng 2,400 tỉ won. Trong năm 2013, chỉ riêng việc sao chép lậu online đã chiếm khoảng 4000 tỉ won. Tại Liên bang Nga, ước tính mỗi năm ngành công nghiệp điện ảnh Nga tổn thất hơn 4 tỷ USD do những hành vi vi phạm bản quyền cũng như phổ biến trái phép các bộ phim trên internet
Có rất nhiều lý do giải thích cho tình trạng trên. Đầu tiên phải kể đến là sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các thiết bị cho phép truy cập mạng Internet đã khiến cho việc truyền tải, sao chép các tác phẩm trở nên rất dễ dàng. Sau đó là thói quen “sài chùa” và ý thức không tôn trọng pháp luật sở hữu trí tuệ của đại bộ phận người dân. Năng lực chuyên môn và sự thiếu hụt về nhân lực, về cơ sở vật chất và điều kiện kỹ thuật trong các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng là một trong những yếu tố làm cho việc thực thi quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế. Các chủ thể quyền chưa có ý thức bảo vệ quyền của mình. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp pháp luật chưa thực sự bắt kịp được với sự phát triển của công nghệ, chưa thực sự bảo hộ hiệu quả quyền tác giả trong môi trường Internet.
2.2 Thực trạng tuân thủ quyền tác giả đối với sinh viên
Ở Việt Nam, bản quyền/ quyền tác giả được quy định chi tiết trong Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan. Theo đó, quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền: quyền nhân thân, quyền tài sản. Những năm qua, tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực với nhiều hình thức và mức độ khác nhau, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Hành vi xâm phạm quyền tác giả được hiểu là việc sao chép lại các tác phẩm của người khác mà không xin phép, thậm chí trích dẫn/ trích nguồn các công trình khoa học của người khác mà không ghi công tác giả tạo ra.
Từ cách hiểu trên, có thể nhận diện các hành vi vi phạm quyền tác giả trong sinh viên như: nhân bản, sử dụng và phân phối các bản sao chép lậu từ tài liệu gốc mà không xin phép, trích dẫn nguồn trong nghiên cứu khoa học, ghi âm/ chụp hình bài giảng của giảng viên trên lớp. Để có cơ sở đánh giá thực trạng việc tuân thủ bản quyền trong sinh viên hiện nay, tác giả đã tiến hành khảo sát 100 sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Việc vi phạm bản quyền diễn ra công khai bằng việc sao chép, nhân bản với số lượng lớn từ tài liệu gốc. Chúng ta không phủ nhận những thành tựu mà công nghệ in ấn đem lại. Dịch vụ in ấn ra đời và phát triển kéo theo nhu cầu về sao chép tăng cao. Tuy nhiên, quyền sao chép được coi là “một trong những quyền tài sản cơ bản và quan trọng của mỗi tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và quyền này được bảo hộ theo quy định của pháp luật”
Khi được hỏi về các cách thức để có được tài liệu, 58% sinh viên lựa chọn sử dụng các bản sao chép lậu từ tài liệu gốc, 25% sinh viên tự đi mua tài liệu tại các nhà sách, 15% sinh viên đến thư viện để đăng ký mượn tài liệu và chỉ có 2% sinh viên còn lại sử dụng các hình thức khác.
Trong nghiên cứu khoa học, viết niên luận hoặc khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, việc thừa nhận kết quả nghiên cứu từ các tác giả đi trước để làm căn cứ chứng minh cho luận điểm của mình là điều hết sức cần thiết. Vì vậy, trích dẫn theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp là yêu cầu không thể thiếu khi sử dụng ý tưởng, quan điểm, tri thức của người khác trong nghiên cứu của mình. Khảo sát cho thấy sinh viên thường sao chép bài viết của tác giả mà không có trích dẫn nguồn, hoặc trích dẫn các bài viết từ nguồn không xác định trên Internet (46%), đặc biệt còn một bộ phận sinh viên không bao giờ trích dẫn tài liệu khi làm các nghiên cứu (10%).
Chúng ta không phủ nhận những tiến bộ mà khoa học công nghệ đem lại cho cuộc sống con người. Việc áp dụng các phương tiện giảng dạy của giảng viên đã được triển khai hiệu quả, làm cho bài giảng của giảng viên thêm sinh động, giờ học của sinh viên cũng trở nên hấp dẫn. Bài giảng của giảng viên là một phần nội dung trong chương trình của một môn học được trình bày trước sinh viên, được coi là sản phẩm trí tuệ và công sức lao động của giảng viên. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ thì việc vi phạm bản quyền đối với bài giảng của giảng viên thường xuyên xảy ra, 65% sinh viên được hỏi thích chụp ảnh, ghi âm thậm chí quay clip bài giảng của giảng viên hơn là cắm cúi ghi chép từ đầu đến cuối.
Như vậy, vấn đề tuân thủ bản quyền của sinh viên vẫn còn bất cập. Thông qua khảo sát và từ góc độ của cá nhân, tác giả cho rằng có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc vi phạm bản quyền trong sinh viên:
- Thứ nhất, nhận thức của sinh viên về vấn đề vi phạm bản quyền chưa thực sự rõ ràng. Đôi khi họ vi phạm bản quyền mà không biết mình vi phạm ở đâu trong khi họ sử dụng tài liệu đó.
- Thứ hai, việc tuân thủ bản quyền ở Việt Nam chưa chặt chẽ. Dường như cũng khó để xác định lỗi hoàn toàn chủ yếu thuộc về sinh viên. Sinh viên có thể coi là đối tượng gián tiếp tiếp tay cho hành vi vi phạm bản quyền. Sinh viên cần sách giá rẻ hoặc dùng sách photo cho những môn học có thời lượng ngắn hoặc có nội dung không quá quan trọng với ngành học của mình [6], nên họ tìm đến các cửa hàng photocopy để mua bán, sử dụng. Bản thân các cửa hàng photocopy mở ra để đáp ứng nhu cầu ấy lại không bị quản lý bởi Nhà nước nên sách photo được bày bán tự do và công khai.
- Thứ ba, sự đáp ứng của các cơ quan thư viện - thông tin trong trường đại học chưa làm thoả mãn nhu cầu của sinh viên. Khảo sát ý kiến của sinh viên, chúng ta thấy được nguồn học liệu phục vụ cho học tập và nghiên cứu dành cho nhu cầu của họ được các thư viện phục vụ chưa đầy đủ (55%) và sự cập nhật nội dung tài liệu trong thư viện cũng chưa kịp thời (52%). Tại Khoản 2, Điều 25, Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 của Chính phủ, thư viện chỉ được quyền sao chép không quá một bản nhằm mục đích nghiên cứu và thư viện không được sao chép, phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng. Với quy định này, việc đáp ứng về tài liệu cho sinh viên của thư viện gặp khó khăn. Chính việc sinh viên thiếu nguồn tài liệu gốc và chưa được cập nhật thường xuyên từ thư viện nên phần lớn sinh viên phải đi tìm tài liệu ở ngoài bằng cách sao chép hoặc tự tìm trên mạng và tải xuống một phần hay toàn bộ tài liệu khi chưa được phép của tác giả.
2.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả
Cần thường xuyên điều chỉnh pháp luật nhưng linh động trong tình hình kinh tế, điều kiện xã hội, mức thu nhập, việc làm, đến cả các mức độ ý thức, nhận thức của người dân rồi dần dần tìm cách điều chỉnh khắc phục các trường hợp qui định về ngoại lệ một cách hài hòa, phù hợp, có lộ trình.
Trong các giải pháp về hoàn chỉnh pháp luật, đặc biệt là các điều chỉnh về các trường hợp ngoại lệ, đáng chú ý là vai trò của quyền nhân thân và quyền tài sản được qui định tại Điều 19 và Điều 20. Tại điều khoản này, xét về hình thức là hoàn toàn phù hợp với điều ước quốc tế, với Công ước Bern và Hiệp định Trips về các quyền độc quyền, quyền ngoại lệ hay phù hợp với phép thử 3 bước của WIPO.
Các qui định tại Điều 19 về quyền nhân thân và Điều 20 về quyền tài sản là quyền độc quyền của tác giả, nên vài trò của hai qui định này tác động rất lớn đến các qui định về các trường hợp khai thác, sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan dựa trên các trường hợp ngoại lệ.
Thuật ngữ nghiên cứu khoa học cần làm sáng tỏ, cụ thể và chi tiết hơn nữa để dễ dàng phân biệt giữa nghiên cứu – nghiên cứu khoa học.
Bộ luật dân sự 2015 đã bãi bỏ các quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Nhưng luật sở hữu trí tuệ thì không bãi bỏ để tách ra thành 3 luật nhánh. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam vẫn gánh 3 nhóm pháp luật, đó là: Quyền tác giả, quyền liên quan; quyền sở hữu công nghiệp; quyền giống cây trồng. Đây là tồn tại bất cập trong hệ thống pháp luật tại Việt Nam hiện nay.
2.4 Giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên với vấn đề bản quyền
Để góp phần và nâng cao nhận thức của sinh viên đối với vấn đề bản quyền nhằm mục đích thực hiện thành công việc tạo lập, quản lý, truyền bá, phổ biến và chia sẻ OER trong các trường đại học, chúng ta cần có đề xuất “mở” từ nhận thức đến hành động của các cấp lãnh đạo, quản lý đến cán bộ, giảng viên và người học.
Đối với sinh viên, họ cần được đào tạo để hiểu về triết lý mở, phần mềm, được hướng dẫn khai thác OER trong trường đại học. Bản thân sinh viên nên được khuyến khích và chủ động chia sẻ nguồn tài liệu của bản thân và có ý thức trong việc tự tạo OER phục vụ học tập và nghiên cứu.
Đối với các cấp lãnh đạo và quản lý, cần có nhận thức mới về phát triển OER, từ đó xây dựng OER một cách phong phú, chất lượng, tăng khả năng kết nối, chia sẻ, sử dụng/ tái sử dụng. Bên cạnh đó, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, phần mềm, nguồn kinh phí thích đáng để số hoá tài liệu, tạo truy cập mở, thực hiện các chính sách đối với OER, từ đó tuyên truyền đến các giảng viên, cán bộ giúp họ có hiểu biết đúng đắn về OER và áp dụng vào thực tiễn của quá trình giảng dạy, nghiên cứu.
Đối với người làm thư viện, cần thường xuyên trau dồi kiến thức, hiểu biết về Luật Bản quyền, Luật Sở hữu trí tuệ, các loại giấy phép truy cập mở để kịp thời đề xuất hướng xử lý trước các hiện tượng vi phạm/ ăn cắp bản quyền đối với nguồn thông tin số nói chung, OER nói riêng.
Điều quan trọng nhất vẫn là việc thúc đẩy tự do chia sẻ trong môi trường học thuật. Như vậy, có thể hình dung mô hình triển khai OER trong thực tế như sau: OER được tạo ra bằng cách giảng viên hay người làm thư viện gắn các giấy phép CC lên tài liệu nội sinh, bài giảng của mình và chia sẻ lên “kho tài nguyên OER” để người học hoặc giảng viên khác tìm kiếm, tiếp tục chia sẻ. Như vậy, mô hình này có lợi ích thiết thực không chỉ với giảng viên/ người làm thư viện mà còn cả sinh viên. Theo đó, vai trò của giảng viên hay người làm thư viện là rất quan trọng vì họ đảm bảo OER được phát triển mạnh mẽ và hiệu quả. Đối với sinh viên, bằng việc gắn giấy phép CC, họ cũng có thể chia sẻ các tiểu luận, khoá luận tốt nghiệp của mình lên kho tài nguyên này để sinh viên khác sử dụng làm tài liệu tham khảo cho bản thân trong học tập, nghiên cứu. Càng nhiều người tạo lập, chia sẻ, OER sẽ thực sự phát huy hiệu quả, giảm thiểu tình trạng vi phạm bản quyền hiện nay. Mô hình này thoả mãn đầy đủ các giải pháp mà tác giả đề xuất ở phía trên.
KẾT LUẬN
Trong mười năm thi hành với vai trò vừa bảo vệ quyền lợi cho các tác giả sáng tạo tác phẩm vừa bảo đảm quyền lợi cho người khai thác, sử dụng. Thật sự, là không dễ, khi vai
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_cuoi_ky_vi_pham_quyen_tac_gia_o_viet_nam.docx