Những tư tưởng Pháp gia, có thể nói đã có từ trước Hàn Phi Tử (280-233 Tr. CN) nhưng ông được coi là người tiền bối sáng lập ra Pháp gia với tư cách là một hệ tư tưởng toàn vẹn. Những tư tưởng này đã góp phần không nhỏ vài sự nghiệp thống nhất quốc gia thời Tần Thuỷ Hoàng đế.
Trung tâm học thuyết pháp gia là những tư tưởng chính trị – xã hội và đề cao phép trị quốc bằng pháp luật.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14225 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đặc điểm triết học Trung Hoa cổ – trung đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đề xã hội. Khổng Tử khinh thị sản xuất và tri thức sản xuất. Trí, theo ông không phải là biết nhiều tri thức tự nhiên. Khổng Tử ghét người nói năng giỏi. Trí không phải là nhiều mưu trí và tài biện luận.
Học thuyết của Khổng Tử không giúp cho trí tuệ và khoa học phát triển, vì tuy trí là biết nhiều nhưng ông quy sự biết ấy vào đạo đức. Ông chống hiện tượng trí bi cực hoá mà ông gọi là đãng (biết hỗn tạp, ngoài lễ và nghĩa, ba hoa). Bằng cách này, Khổng Tử tỏ ra bảo thủ, muốn ngăn chặn những đòi hỏi sự phát triển của xã hội.
Dũng, theo sự giải thuyết trực tiếp là “không sợ”, nhưng dũng không trỏ sức khoẻ thể chất. Dũng là xét mình không sai lầm thì không lo sợ gì, là quả cảm; là sức mạnh tinh thần dám làm điều nghĩa. Loại người có sức mà làm nhiều việc bậy không được gọi là dũng. Khổng Tử còn đề ra sự phòng phạm về dũng; lấy “kính” nhường “thận trọng” và học để trị, đối phó với dũng; ông cho rằng chỉ có dũng là khong có nghĩa vì sẽ gây loạn.
Nhân, trí, dũng là những đức mục có liên quan đế sự vùng dậy của tầng lớp quốc dân. So với “nhân” khá trìu tượng thì “trí” và “dũng” khá cụ thể, gắn với sự phát triển của tầng lớp quốc dân thời chiến quốc.
Không coi trọng tri thức sản xuất “người quân tử chỉ cần tu dưỡng đạo đức rồi bọn tiểu nhân mang đến cho mà ăn, cần gì phải cày ruộng, làm vườn”. Sự phân công lao động giữa người lao tâm và người lao lực được hoạch định rất rõ ràng: do người lao tâm dạy người lao lực làm việc để nuôi sống người lao tâm. Do vậy, mà dù đã trải qua mấy chục thế kỷ, Nho giáo vẫn không được phát triển vì nó không có tri thức khoa học.
Ông chủ trương dùng chính danh khôi phục kỹ cương xã hội. Tuy nhiên ông chủ trương khôi phục danh cũ của nhà Chu vốn đã tỏ ra lạc hậu. Đây là một chủ trương thiếu tính cách mạng, có tư tưởng cải lương.
Căn cứ vào danh mà có quyền và lộc:
* Tư tưởng “Lễ”:
Khái niệm Lễ mà Khổng Tử nói tới ở đây bao hàm một nội dung rất rộng. Đó là những quy phạm đạo đức trong ứng xử giữa con người với nhau trong cuộc sống thường nhật mà còn là toàn bộ những nghi thức nói chung; những điển chế, thiết chế hoạt động trong tổ chức xã hội.
Ông cho rằng, Lễ là dường mối của một xã hội. Do vua không giữ đúng đạo vua, tôi không giữ đúng đạo tôi, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con cho nên xã hội đại loan. Do vậy, cần phải lập lại kỹ cương cho vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con; tức là làm cho thiên hạ từ chỗ vô đạo ra hữu đạo thì xã hội mới yên ổn thái bình.
Theo ông Lễ nhà Chu được coi là điển mẫu cần phải noi theo. Do vậy, ông chủ trương giữ lại hình thức thiết chế nhà Chu, mặt khác ông lại chủ trương cần phải đưa vào trong thiết chế ấy những nội dung mới cho phù hợp. Đây là một chủ trương cấp tiến theo nguyên tắc kế thừa và phát triển.
Tư tưởng “Lễ” của ông có những điểm hạn chế như tính chất rườm ra, phiền tạp, danh nào lễ ấy. Tư tưởng ấy làm cho con người an bần, lạc đạo, không đấu tranh.
* Tư tưởng về các giải pháp phát triển đất nước.
Tư tưởng về đường lối xây dựng đất nước là chính sách thượng hiện, chính sách tiết kiệm, dân tin và giáo dục. Đây là bốn giải pháp có tính nhân loại
- Chính sách thượng hiền là chính sách coi trọng người tài. Trong chế độ nô lệ, việc chọn quan chỉ hạn chế trong tôn tộc, chính sách đó gọi là “thân thân”, tuy để chọn quan giỏi cón có chính sách “minh hiền”. Hiền chủ yếu cũng là hiền hữu, có khả năng giải quyết một số vấn đề cai trị đơn giản.
Quan niệm hiền tài ở Khổng Tử chưa đạt đến mức như thời đại đòi hỏi. Hiền là có năng, có nghệ nhưng phải có đức, song Khổng Tử quý hiền đức hơn năng và nghệ. Quan niệm hiền tài của ông vẫn còn cũ “ Người quân tử coi đạo là mục tiêu, nhân đức là chỗ dựa, còn nghệ chỉ là thứ để chơi”. Nghệ chỉ là bổ trợ cho sự tu dưỡng. Hiền tài ở Khổng Tử là hiền đức chứ không phải là hiền tài phú quốc cường binh.
Nho giáo nói chung không đề cao tài mà đề cao đức. Nguyễn Trãi từng nói tài bao giờ cũng kém đức một vài phần. Đó chính là quan niệm thượng đức ( chuộng đức) của Nho gia đồng thời đó cũng là 1 hạn chế lớn của tư tưởng nhân đạo Nho giáo. Vì rằng nhân loại thực ra tin vào sức mình thì mới có thể tiến lên được. Mà sức của con người là trí tuệ và lao động.
- Chính sách tiết kiệm:
- Dân tin:
Khổng Tử cho rằng, để xây dựng quốc gia thái bình thịnh trị, người trị vì đât nước cần chăm lo ba việc lớn: (1) Túc thực ( sản xuất nhiều của cải vật chất), (2) túc binh ( quốc phòng hùng hậu), (3) Thành tín (giữ lòng tin của dân sao cho dân tin và dân phục). Trong đó, theo Khổng Tử, quan trọng nhất là thành tín, thứ đến là túc thực và sau cùng là túc binh (Dân vi bang bản dã).
Bình ngô đại cáo - Đảng VIII: Lờy dân làm gốc.
- Giáo dục:
Theo Khổng Tử để có thái bình thịnh trị, cần phải coi trọng cải cách giáo dục và pháp luật. Nhưng giáo dục là cái gốc lâu bền, giáo dục sẽ tạo dựng ra những con người nhân, lễ, tín, dũng. Còn hình luật chỉ là ngọn. Dùng hình luật chỉ là tạm thời giáo huấn con người.
Xuất phát từ quan niệm đó, Khổng Tử đã giành nhiều tâm huyết vào đặt nền móng cho một nền giáo dục lý tưởng của ông. Nền giáo dục, theo Khổng Tử, phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản:
(1) “Đại học chi đạo”: nghĩa là học cho đến mức biến hóa được dân, đổi được phong tục tập quan của dân làm cho người gần thì khâm phục, người xa thì yêu mến.
(2) “Tại minh minh đức”: chữ đức được hiểu là chân lý nhận thức, nghĩa là học đến mức hiểu được các nguyên lý của trời đất, thấu hiểu đựoc mọi chân tơ kẽ tóc.
(3) “Tại thần dân”: sự học phải được xuất phát từ tình thương yêu dân, thương yêu con người mà học. Bởi vì theo Khổng Tử đạo của đạo học là đạo người, cho nên chỉ ai có tình thương yêu con người mới có thể thấu hiểu lý lẽ của sự học.
(4) “Tại chi vi chi thiện”: tức là học cho đạt tới sự hoàn thiện.
Muốn đạt được minh đức, sáng tỏ ngọn nguồn của tạo hó thì phải “cách vật trí chi” tức là phải tới nơi có sự vật, có sự kiện mà tìm ra ngọn nguồn của nó. Cuối cùng, mục đích của sự học cũng như mục đích của giao dục, theo Khổng Tử, là để “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, thiên hạ bình”
c) Nho giáo Việt Nam
* Lịch sử:
Nho giáo được truyền vào Việt Nam thế kỷ II. Người đầu tiên truyền chữ Hán vào Việt Nam là Sĩ Nhiếp.
Suốt Tkỷ II – XIV: nho giáo không giữ vai trò quốc giáo mà là phật giáo, cho dù có 1000 năm Bắc thuộc. Trong đó trong thế kỷ XI chấp nhận Nho giáo trong sự đan xen.
Tkỷ XV: Nho giáo như là quốc giáo
Tkỷ XV – Tkỷ XIX: Nho giáo trở thành quốc giáo. Tkỷ XV là thời kỳ đỉnh cao của Nho giáo, Tkỷ XIX là thời kỳ khắc nghiệt do sự thống trị của nhà nước phong kiến suy tàn.
Cuối Tkỷ XIX - đầu Tkỷ XX: Nho giáo bị đụng phả tư tưởng canh tân, tuy nhiên không đủ sức phá vỡ Nho giáo. Cũng trong giai đoạn này luồng tư tưởng trí thức Tây Âu cũng du nhập vào nước ta.
Cách mạng tháng Tám – nay: hệ tư tưởng Mác – Lênin giữ vai trò chi phối. Thái độ với nho giáo ở thời kỳ đầu rất cực đoan. Tuy nhiên, từ những năm 1990 trở lại đây, Nho giáo được cọi trọng trở lại, đánh giá Nho giáo khách quan hơn.
* Sự sáng tạo của Việt Nam trong việc tiếp thu nho giáo mang bản sắc riêng. Về chữ viết, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm chứ không phải chữ tượng hình như Trung Quốc. Trong việc xử lý quan hệ chính trị, Trung Quốc chủ trương bành trướng ra bên ngoài còn Việt Nam chủ trương giữ vững ổn định bên trọng. Sự kết hợp hài hoà, phát triển, chuẩn mực đạo đức.
Mặc dù có tiếp biến Nho giáo nhưng Việt Nam lại không khác thác được những mặt tích cực của nó.
Nho giáo bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng đã thâm nhập vào nước ta hàng ngàn năm. Nó giữ vị trí rất quan trọng trong đời sống tư tương và tinh thần của nhân dân ta xưa kia và trở thành nòng cốt của hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam.
Đạo nhân của Nho giáo có tác động giúp người dân duy trì và phát huy lòng nhân ái, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, tin cẩn nhau, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua mọi khó khăn và thử thách, với tinh thầnh máy chảy ruột mềm, thương người như thể thương thân, chia ngọt sẽ bùi với nhau.
Bên cạnh đó, trong học thuyết của Nho giáo, thuyết “ tam tòng tứ đức” mặc dù có nhiều khía cạnh lạc hậu, coi khinh vai trò của người phụ nữ, đặt phụ nữ vạo địa vị phụ thuộc nam giới, nhưng nó cũng có những tác dụng tích cực nhất định trong việc giáo dục người phụ nữ trở thành những người mẹ hiền dâu thảo, hy sinh tận tuỵ để chồng con đi làm việc vì dân vì nước.
Ngoài ra, tư tưởng về giáo dục, xây dựng con người cuỉa nho giáo cũng có nhiều điểm tiến bộ mà chúngh ta cần phải phát huy. Là một học thuyết nhập thế, Nho giáo cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Nho giáo cũng khuyến khích mọi người rèn luyện, tu thân, nhờ đó có khả năng để làm những công việc “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, nghĩa là xây dựng những gia đình gương mẫu, góp phần làm cho đất nước được thịnh trị, thiên hạ được thái bình. Nho giáo cũng đề ra những tiêu chuẩn đức tài để mọi người rèn luyện và phấn đấu là phải có đủ nhân, trí, dũng và nghĩa, tức là phải biết thương dân, có tài trí mưu lược và có lòng dũng cảm. Người quân tử theo Nho giáo phải liêm chính, chí công vô tư, phải biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người quân tử thấy việc chính nghĩa thì làm, sự giàu sang không thể làm sa đoạ, sự nghèo hèn không làm thay đổi chí hướng, không có điều gì không thể khắc phục được. Những tư tưởng này chúng ra rất cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Bên cạnh những giá trị tích cực, Nho giáo cũng có những hạn chế. Nho giáo đòi hỏi cấp dưới phải tuyệt đố tin tưởng và phục tùng ý kiến của cấp trên, con cháy phải phục tùng tuyệt đối cha ông… Tư tưởng tôn ty đẳng cấp của Nho giáo nhiều lúc làm cấp trên thì độc đoán kiêu căng, người dưới thì sợ sệt khúm núm, giết chết không khí trao đổi thẳng thắn một cách dân chủ. Nho giáo đòi hỏi mọi người phải học theo người xưa, làm sống lại lễ giáo và phong tục của người xưa. Sự mất dân chủ còn thể hiện trong quan hệ vợ chồng, cha mẹ, con cháu, thầy trò. Mặt khác, tư tưởng tôn ty đẳng cấp của Nho giáo này còn khiến người ta chỉ coi trọng người có chức vụ, chỉ đãi ngộ tốt người có chức vụ mà không chú ý đến người giỏi chuyên môn, tới sự hăng hái học tập để làm chủ khoa học kỹ thuật.
3) Pháp gia
Những tư tưởng Pháp gia, có thể nói đã có từ trước Hàn Phi Tử (280-233 Tr. CN) nhưng ông được coi là người tiền bối sáng lập ra Pháp gia với tư cách là một hệ tư tưởng toàn vẹn. Những tư tưởng này đã góp phần không nhỏ vài sự nghiệp thống nhất quốc gia thời Tần Thuỷ Hoàng đế.
Trung tâm học thuyết pháp gia là những tư tưởng chính trị – xã hội và đề cao phép trị quốc bằng pháp luật.
Phái pháp trị của Hàn Phi Tử đựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
* Thừa nhận tính khách quan và uy lực của những lực lượng khách quan mà ông gọi là “Lý”. Đó là cái chi phối quyết định mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội.
* Thừa nhận sự biến đổi cùa đời sống xã hội, cho rằng không có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó, không thể có khuôn mâu chung cho toàn xã hội. Theo Hàn Phi Tử, xã hội trải qua ba giai đoạn chính là thời thượng cổ, thời trung cổ, va thời cận cổ, trong đó mỗi thời đại đếu có cái khuôn mẫu riêng của nó. Động lực căn bản c ủa sự thay đổi xã hội đựoc ông quy về sự thay đổi của dân số và của cải xã hội.
* Trong quan niệm về bản tính con người, ông cho rằng bản tính con người sinh ra vốn có những bản tính bất thiện nhưng tham lam, vị kỷ, cầu lợi, tránh hại…
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị. Những tư tưởng chủ thuyết Pháp trị này được thể hiện ở những nội dung lớn sau đây:
* Cần thiết phải cai trị xã hội bằng pháp luật, ông phản đối phép trị quốc của Nho gia coi trọng Nhân trị và phép “vô vi tri” của phái Lão gia.
* Phép trị quốc phải thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của xã hội, tức là phải căn cứ vào tình trạng cụ thể của tình trạng xã hội mà đề ra phép tắc, điều luật, không nên nệ cổ, hoài cổ.
* Nội dung của phép trị quốc gồm ba yếu tố tổng hợp: Pháp, thế và thuật
- Pháp là những quy định, những luật lệ hiến lệ; là thể chế, chế độ chính trị – xã hội; tức nó là những tiêu chuẩn khách quan, tất đinh mà người ta có thể căn cứ vao đó luận công, tội, phải, trái, đúng, sai… Theo Hàn Phi Tử, pháp phải được xác định rõ ràng, minh bạch, khách quan.
- Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của nhà cầm quyền, nó gắn liền với pháp. Có pháp mà không có thế là vô dụng, do vậy nhà cầm quyền phải có quyền tuyệt đối trong cai trị.
- Thuật là phương pháp thủ thuật, cách thức, mẹo mực, nghệ thuật cai trị quốc gia. Nó bao gồm nhiều nội dung như chọn đúng người, đặt đúng việc, cách thức kiểm tra, thưởng phạt đúng công, tội …
Thể chế nào cũng vậy từ xưa đến nay đều cần có các vấn đề pháp, thế và thuật để ổn định xã hội. Rõ ràng quan điểm của phái Pháp gia rất thích hợp với điều kiện thời chiến và trong bối cảnh một xã hội lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế cơ bản.
4, Kết hợp tư tưởng “pháp trị” và “ nhân trị”.
Tư tưởng “nhân trị” xuất phát từ phải Nho gia mà tiêu biểu là Khổng Tử. “Nhân trị” tức trị nước bằng nhân của người cầm quyền. Theo Khổng Tử, “nhân” là yêu người và thương người; nhân là coi người như mình, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người. Đối với người làm chính trị muốn có đức nhân phải làm năm điều: (1) Kính trọng dân, (2) khoan dung độ lượng, (3) giữ lòng tin. (4) Mẫn cán, (5) đem lòng nhân áu mà lo cho dân và đối xử với dân. Đối với đấng quân vương trị vì đất nước, muốn có đức nhân cần phải: (1) Kính sự (chăm lo đến công việc), (2) Như tín (giữ lòng tin với dân), (3) tiết dụng (tiết kiệm trong tiêu dùng).
Tư tưởng “pháp trị” do Hàn Phi Tử khởi xướng, tư tưởng này được thể hiện ở chỗ: cần thiết phải cai trị xã hội bằng pháp luật và phép trị quốc phải thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của xã hội. Phép trị quốc gồm ba yếu tố tổng hợp: pháp, thế và thuật. Trong đó pháp là những quy định, những luật lệ hiến lệ, là thể chế, tức nó là những tiêu chuẩn khách quan, tất định mà người ta có thể căn cứ vao đó luận công, tội, phải, trái, đúng, sai… Theo Hàn Phi Tử, pháp phải được xác định rõ ràng, minh bạch, khách quan. Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của nhà cầm quyền, nó gắn liền với pháp. Thuật là phương pháp thủ thuật, cách thức, mẹo mực, nghệ thuật cai trị quốc gia.
Chủ trương “nhân trị” được đặt ra trong hoàn cảnh xã hội hỗn loạn, chao đảo, chiến tranh liên miên nên đã thất bại trị đã thất bại, song trong nhiều đời sau nó vẫn có giá trị. Tư tưởng “pháp trị” rất thích hợp với điều kiện thời chiến và trong bối cảnh một xã hội lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế cơ bản. Bất kể một thể chế nào cũng vậy từ xưa đến nay đều cần có các vấn đề pháp, thế và thuật để ổn định xã hội. Nhà Tần mạnh được nhờ áp dụng “pháp trị” nên đã thành công trong việc thống nhất được thiên hạ, ổn định xã hội. Tuy nhiên nhà Tần không tồn tại được lâu (chỉ 15 năm) do thiếu nhân trị. Nhà Hán đã biết kết hợp cả nhân trị và pháp trị thực hiện phương châm trong pháp ngoài nho. Điều này đã làm cho nhà Hán tồn tại được hơn 4 thế kỷ.
Như vậy như một quy luật khi xã hội đã ổn định, chuyển từ pháp trị sang nhân trị. Khi nội bộ lục đục cần phải sử dụng pháp trị (các biện pháp mạnh), nhưng khi mọi việc đang yên ổn cần dùng nhân trị. Mặc dù vậy, việc sử dụng pháp trị và nhân trị là cả một nghệ thuật, đòi hỏi tào thao lược và mưu trí của người cầm quyền.
Vận dụng tư tưởng pháp trị và nhân trị trong điều kiện hiện nay ở nước ta:
Ví dụ: Chủ trương thu hồi đất cho việc xây dựn các khu công nghiệp, đường xá. Đây là một chủ trương đúng bắt buộc mọi người phải tuân theo, những người được giao quyền sử dụng đất phải bàn giao cho nhà nước để triển khai dự án. Đối với những hộ chống đối không chấp hành chủ trương cần sử dụng giải pháp mạnh là cưỡng chế di dời. Đây chính là áp dụng những tư tưởng “pháp trị”. Tuy nhiên, về mặt “nhân trị” là đi cùng với việc thu hồi đất của nhân dân nhà nước cần có chính sách đền bù thoả đáng không để người dân quá thiệt thòi, giá đề bù qúa thấp so với giá cả thị trường của đất đai, mặt khác phải có giải pháp tạo công ăn việc làm, bố trí nơi tái định cư ổn định đời sống của người dân.
BàI 6: Lý luận hình thái kinh tế xã hội và sự vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta
1, Sản xuất vật chất- cơ sở của đời sống xã hội
Sản xuất vật chất với nghĩa chung nhất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm “biến”các dạng vật chất thành những sản phẩm cần thiết cho đời sống con người và cho xã hội.
Sảnn xuất vật chất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người . Đó là quá trình lao động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người. Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuát vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất bản thân con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phat triển xã hội. Xét đến cùng, sản xuất vật chất quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội.
TrảI qua lịch sử lâu dàI chinh phục giới tự nhiên, con người ngày càng hiểu rõ sức mạnh của mình. Cùng với việc cảI biến thế giới xung quanh, con người đồng thời cảI biến chính bản thân mình và các quan hệ giữa con người với nhau giúp cho việc chinh phục tự nhiên đạt hiệu quả cao hơn. Như vậy, con người và xã hội loàI người được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động sản xuất vật chất. Với nghĩa đó, Ph. ăngghen đã nói: chính lao động sáng tạo ra con người và xã hội loàI người.
Sản xuất vật chất chính là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội, bởi lẽ:
* Suất vật chất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội. Mọi người trong xã hội đều có nhu cầu tiêu dùng ( thức ăn, quần áo, nhà ở và các đồ dùng khác)., Muốn vậy, phảI sản xuất vật chất, bởi lẽ chính sản xuất vật chất càng phát triển thì mức tiêu dùng của con người và xã hội càng cao và ngược lại.
* Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành các quan hệ xã hội khác như: quan hệ chính trị, pháp quyền, đạo đức.
* Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, là điều kiện để phát triển đời sống tinh thần của con người và xã hội.
2, Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a) Nội dung của quy luật
* Lực lượng sản xuất
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lực lượng sản xuất. Trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thì “lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất”. Dưới góc độ là kết quả phát triển của thực tiễn xã hội, lực lượng sản xuát thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Về kết cấu, lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng, kinh nghiệm lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhua thành lực lượng lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất. Tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì người lao động đóng vai trò quyết định. Bởi vì, người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, quyết định việc sáng tạo ra và sử dụng tư liệu sản xuất để sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất được tiến hành như thế nào, trước hết tuỳ thuộc vào thể chất, vào tinh thần và trình độ của người lao động.
Trong tư liệu sản xuất thì công cụ lao động đóng vai trò quyết định. Bởi vì, trong quá trình lao động sản xuất, con người phải sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên. Trình độ phát triển của công cụ lao động quyết định trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Công cụ lao động luôn được đổi mới và phát triển, nó là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất không phải là phép cộng của các yếu tố mà là một hệ thống, trong đó chúng quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Các yếu tố của lực lượng sản xuất tồn tại trong một kiểu tổ chức, phân công lao động nhất định.
* Quan hệ sản xuất là toàn bộ mối quan hệ lẫn nhau giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không theo ý muốn chủ quan của con người.
Quan hệ sản xuất có ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất; quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Ba mặt trên của quan hệ sản xuất có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm được tư liệu sản xuất trong tay người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm lao động.
* Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện mang tính biện chứng. Quan hệ này biểu hiện ở quy luật cơ bản của sự vận động của đời sống xã hội – quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng nhát của quá trình sản xuất. Nó là nội dung của quá trình, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định. Nó là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ này, lực lượng sản xuất (nội dung) quyết định quan hệ sản xuất (hình thức).
Lực lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có. Điều nàu đòi hỏi phảI xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy phương thức sản xuất mới ra đời.
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình đội phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt trước quá xa) sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn thể hiện ở chỗ nó quy định mục đích sản xuât; ảnh hưởng tới thái độ lao động của người lao động; kích thích hoặc kìm hãm việc cải tiến công cụ lao động cũng như việc áp dụng thành tựu khoa học vào sản xuất….
Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuát và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giảI quyết được mâu thuẫn này. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
b, Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.
Ở nước ta trước đổi mới (1986) đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng quy luật này. Điều này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất XHCN mà không tính tới trình độ của lực lượng sản xuất. Chúng ta mắc bệnh chủ quan nóng vội, duy ý chí trong cải tạo xã hội chủ nghĩa nên đã muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế “Phi xã hội chủ nghĩa” nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Kết quả là những thành phần kinh tế thuộc sơ hữu tư nhân bị triệt tiêu, kinh tế phát triển chậm dần, từ đầu những năm 80 của thể kỷ XX đất nướcc lâm vào khủng hoảng kinh tế sã hội trầm trọng.
Từ đổi mới 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Điều này hoàn toàn đúng với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp vừa không đồng đều. Chúng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN mới phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở vật chất của CNXH. Nền kinh tế nhiều thành phần chứa đựng trong bản thân nó mâu thuẫn. Đó là khuynh hướng tự phát lên TBCN và tự giác lên CNXH. Cuộc đấu tranh vì định hướng XHCN diễn ra gay gắt. Vì vậy, phảI có sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước trong qua trình phát triển kinh tế nhiều thành phần.
=> phân tích một số kết quả của công cuộc đổi mới:
Kinh tế nhà nước luôn luôn được xác định giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, nó là nhân tố mở đường cho sự phát triển của nền kinh tế và lực lượng vật chất quan trọng nhất, là công cụ để Nhà nước ta thực hiện chức năng quản lý và đIều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước nắm giữ các ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn nhất của nền kinh tế (Viễn thông, năng lượng, giao thông…) với nguồn vốn lớn (ngân sách nhà nước). Vì vậy nó có khả năng điều tiết các thành phần kinh tế khác và hướng các thành phần kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đặc điểm triết học Trung Hoa cổ – trung đại.doc