Tiểu luận Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay

Chủ nghĩa tư bản ngày nay là giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền(chủ nghĩa tư bản hiện đại)nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, được phân tích kể tì sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, chủ yếu là từ những năm cuối của thế kỷ 20.

ở đây chủ nghĩa tư bản hiẹn đại phản ánh một giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đó là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước với nhiều đặc trưng mới

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9721 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước. Trước sự phát triển của khoa học công nghệ và phân công lao động quốc tế hình thức quản lý chuyển đổi từ loại tập chung cao độ quyền lực quản lý vào công ty mẹ theo kiểu “kim tự tháp” sang các công ty chi nhánh, các đơn vị sản xuất theo kiểu “màng lưới”. Như A. Toffer nhận xét: “Tổ chức quản lý theo kiểu hình tháp, cồng kềnh và quan liêu, hiện đang bị các công ty chạy đua giải thể” đã làm cho các loại hình tổ chức mới theo kiểu ma trận, nhóm dự án ngày càng được đề cao và ưa chuộng, đây sẽ là loại hình tổ chức quản lý chủ yếu của xã hội dựa trên tri thức. Bởi vì trong xã hội thông tin ngày nay, sự truyền đạt tin tức quản lý phải được nhanh chóng, chính xác, trong khi mô hình quản lý cũ đã làm chậm và mất tính chuẩn của tin do việc truyền tin qua nhiều tầng lớp trong không gian từ trên xuống dưới và ngược lại, không linh hoạt, cồng kềnh kém hiệu quả. Thể chế truyền thống đã tỏ ra bất cập trước những vấn đề mới phát sinh như: tính nhất trí của lợi ích, sự khác nhau về văn hoá, tuổi thọ sản phẩm…Thể chế quản lý màng lưới không co trung tâm, mỗi một tầng quản lý trong mạng lưới, mỗi người quản lý đều là một trung tâm, giữa chúng có mối liên hệ phức tạp giao chéo kiểu rẻ quạt. Mục tiêu quản lý của nó không chỉ có quản lý kinh doanh, tiêu thụ, quản lý nhân viên, mà còn cả việc thiết kế hình tượng xí nghiệp, với tôn chỉ là hoạt động có hiệu quả nhất tàI năng và ưu thế của mỗi người trong mạng lưới công ty. Trong hình thức này, tin tức lan truyền như hệ thống thần kinh, đảm bảo cho mọi cấp quản lý đều nhận được thông tin mới nhất và hoàn chỉnh để đưa ra quyết sách, do đó mà có khả năng ứng phó với mọi điều kiện sản xuất tiêu thụ sản phẩm trước mọi biến động của thị trường thế giới hiện nay. Mô hình tổ chức quản lý của thể chế này có hai loại, theo quá trình nằm ngang và theo kiểu “tế bào sản xuất” Mô hình tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang được xây dựng là nhằm khắc phục những khuyết tật của kiểu quản lý truyền thống, giảm bớt nhiều tầng lớp trung gian, chuyển từ việc lấy chức năng công việc làm hạt nhân sang quá trình làm hạt nhân để tổ chức nhân viên. Nội dung chủ yếu của kết cấu tổ chức quản lý theo kiểu nằm ngang là việc tập hợp những viên chức có kỹ năng khác nhau vào một “tế bào sản xuất” để họ thấy được đầy đủ mục tiêu của một “quả trình tác nghiệp”. Từ đó họ tự quản lý sản xuất, phát huy cao độ tinh thần hợp tác và ưu thế của một tập thể hoàn chỉnh để giành thắng lợi trong cạnh tranh. ở đây, đội sản xuất trỏ thành nền tảng và đảm nhiệm một quá trình sản xuất, thực hiện tự kiểm soát, kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình, giảm được việc tổ chức giám sát, kiểm tra và loại bỏ được mọi hoạt động không làm tăng giá trị của sản phẩm, kích thích thi đua hợp tác của nhân viên, tăng khả năng tiếp xúc, cuốn hút khách hàng, do vậy mà nó hiệu quả hơn. Mô hình tổ chức quản lý kiểu “tế bào sản xuất” là kiểu tổ chức quản lý trong đó công nhân được chia ra từng ca, kíp nhỏ (thường từ 2-50 công nhân) có thể chế tạo, kiểm tra và hoàn thành toàn bộ sản phẩm. Mỗi công nhân có thể làm nhiều việc và mỗi tế bào phảI chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình. “Tế bào sản xuất” là một “quá trình hẹp” nhựng lại rất linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu thay đổi kiểu dáng, mẫu mã của khách hàng một cách nhanh chóng, đảm bảo cho việc sản xuất theo đơn đặt hàng phù hợp với sự biến động mau lẹ của thị trường. Mỗi tế bào sản xuất một sản phẩm khác nhau, nếu rủi ro thì chỉ ảnh hưởng tới tế bào “đương sự” tránh được rủi ro cho toàn xí nghiệp. Do đó, tế bào sản xuất mang lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn. Như vậy, một điều nổi rõ trong quá trình chuyển đổi hình thức tổ chức quản lý là nhằm vào phát huy và sử dụng các nguồn lực của con người - đó là hệ thống tổ chức sản xuất lấy con người làm trung tâm, định hướng vào loại nhân lực có trình độ cao trong quá trình sản xuất, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn một cách liên tục và có hệ thống, với một đội ngũ công nhân năng động và cách thức tổ chức linh hoạt từ trên xuống dưới đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả việc trang bị các thiết bị hiện đại. Việc hoàn thiện công tác quản lý nguồn nhân lực con người mang lại một tác động mạnh mẽ hơn nhiều mặt về thành tựu so với việc mua sắm các kỹ thuật tiên tiến hơn từ các máy cộng cụ điều khiển bằng chương trình số cho tới các hệ thống sản xuất linh hoạt. Trước hết, các xí nghiệp lớn ngày càng thực hiện chế độ cung ứng (hoặc chế độ khoán), giao một số linh kiện hoặc giai đoạn nào đó của sản phẩm cho các xí nghiệp khác hoàn thành. Cách làm này đã có từ lâu. Chỗ khác nhau giữa chế độ cung ứng mới hiện nay và trướckia là ở chỗ, chẳng những các hãng chế tạo lớn khoán việc sản xuất mà còn khoán toàn bộ công tác nghiên cứu khoa học, chế tạp thử cho tới sản xuất những linh kiện đó cho các xí nghiệp khác, từ đó hình thành nên mạng lưới xí nghiệp do hãng chế tạo lớn cầm đầu, có nhiều hãng nhận khoán (hoặc hãng cung ứng) tham gia. Các xí nghiệp đều độc lập về mặt pháp luật, nhưng về sản xuất là một chỉnh thể, về hành động thì nhất trí, mục tiêu và sự chú ý của họ đều tập chung vào việc làm thế nào để sản phẩm có sức cạnh tranh lớn nhất. Thứ đến, để nâng cao hiêu quả công tác, các xí nghiệp lớn đang cải tiến cơ chế quản lý trước đây là phân công ngành quá chi tiết, quá nhiều tầng nấc…. lần lượt giảm bớt các tầng nấc, xoá bỏ một số ngành chức năng, hoặc phá bỏ “rào chắn” giữa chúng, thực hiện tổng hợp hoá chức năng, cắt giảm hàng loạt nhân viên quản lý trung gian. Tóm lại, sự thay đổi trên thể hiện thông qua: Thứ nhất, việc chuyển từ chế độ dự dựa trên sở hữu cổ phiếu khống chhé được thay thế bằng chế độ uỷ nhiệm, do việc phát hành cổ phiếu với mệnh giá nhỏ, khối lượng lớn, bán rộng rãi để thu hút nguồn vốn rộng rãi trong dân cư, làm cho cổ phiếu của công ty bị phân tán, quyền lực khống chế của tư bản riêng biệt bằng sở hữư cổ phần đang bị lu mờ dần đi. Thứ hai, do mức độ rủi ro trong đầu tư ngày càng cao, tư bản tiếp tục phân tán giải ra các ngành, các công ty và cả các tập đoàn tư bản khác nhau, quyền lực lớn sở hữu bị suy yếu, độc quyền dựa trên ý chí một vài cá nhân tư bản lớn hầu như không còn cơ sở để tồn tại. Thứ ba, sự phát triển của kết cấu tập đoàn tư bản tài chính mạng lưới, tạo nên quan hệ thống nhất và mâu thuẫn dựa trên mục tiêu, hiệu quả và lợi ích của tư bản sở hữu và tư bản chức năng, là một hình thức quan hệ kinh tế mới của tư bản tai chính. Trong kết cấu này tồn tại nhiều thế lực có sức mạnh cân bằng và lợi ích xoắn xuýt vào nhau, vì chúng có cổ phần đan xen nhau, các bên có sở hữu cổ phần ngang nhau, không bên nào độc quyền chiếm cổ phần có quyền khống chế. Từ đó mà hình thành ra một hình thức tư bản tài chính tập thể. Quyền lực thực sự trong các tập đoàntư bản tài chính đã chuyển dần từ tay những tư bản kếch sù cha truyền con nối, những người hoàn toàn tách rờiquá trình sản xuất trực tiếp sang tay những người vạch đường cho doanh nghiệp phát triển và những người trực tiếp điều hành. Thống kê ở Mỹ cho thấy, giám đốc và chủ tịch của 3500 công ty lớn đã kiểm soát gần 1/2 tàI sản công nghiệp cả nước, 1/2 tài sản ngân hàng, 1/2 tàI sản ngành GTVT và khu vực công cộng, 1/3 tài sản ngành bảo hiểm. Trong đó chie có 10% là con cháu các gia đình giàu có, còn lại là hàng ngũ giám đốc kể từ bậc thấp nhất của nấc thanh chi phối xí nghiệp đến vị trí ngai vàng quyền lực. Trong các nhà tỷ phú có rất nhiều người thuộc hàng ngũ giám đốc đI lên bằng con đường doanh nghiệp. Trong khi 3/5 tư bản có được từ lợi nhuận của công ty, 1/5 từ nguồn vay tín dụng ngân hàng, 1/5 từ nguồn đầu tư của các tổ chức ngoài ngành, và các nhà đầu tư cá thể tự do chỉ cung cấp có 5% thì tấtnhiên sẽ hình thành hình thức sở hữu tập thể của tư bản độc quyền thông qua hàng ngũ giám đốc trực tiếp quản lý xí nghiệp, các nhà tư bản độc quyền và hàng ngũ giám đốc hoà làm một. Thực tế ở Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức, Anh, Pháp…. . cũng diễn ra sự di chuyển quyền lực như thế. Giữa các bộ phận, các thành viên trong nội bộ tập đoàn tài chính có quan hệ vừa cạnh trah với nhau, vừa phối hợp chặt chẽ với nhau vì lợi ích hơn của tập đoàn. Quan hệ giữa chúng trước tiên là quan hệ đối tác được quyết định trên thị trường và do các quy luật của thị trường chi phối. Song quan hệ cạnh tranh ở đây không phải là cạnh tranh thuần tuý, mà là quan hệ cạnh tranh giữa các bộ phận có sự lệ thuộc lẫn nhau chịu sự chỉ đạo điều khiển từ trung tâm, đảm bảo cho các bộ phận chóp bu của tập đoàn khống chế được bộ phận ngoại vi để thu lợi nhuận cao hơn. Mặt khác, nó còn bảo vệ cho các bộ phận đó không bị bóp chết trong cạnh tranh, được nâng đỡ định hướng trong kinh doanh. Tuy vậy, các bộ phận của tập đoàn cũng có tính độc lập tương đối của nó với bộ phận chóp bu, chúng cũng bị đào thải khi kinh doanh không hiệu quả, hoặc trở thành bộ phận chủ đạo khi chúng kinh doanh có hiệu quả và phát triển mạnh lên. Việc kiểm soát trong tập đoàn của nhà tư bản sở hữu lớn vừa có tính trực tiếp, lại vừa có tính gián tiếp. Việc kiểm soát trực tiếp được thực hiện bằng cách sử dụng cổ phần khống chế để can thiệp vào xí nghiệp và các công ty thành viên. Việc kiểm soát gián tiếp thông qua cơ chế thị trường bằng cách chủ động tạo ra sự ổn định cho hoạt động của công ty, hoặc bơm vào nó những đợt sóng xung đột lớn trên thị trường chứng khoán, để buộc các tư bản chức năng phảI tuân theo ý chí của chủ sở hữu tư bản lớn. Như vậy, quyền lực thống trị của tư bản tài chính đã có sự biến đổi cho phù hợp với quá trình xã hội sản xuất ngày càng mở rộng. Dù cho cổ phiếu có phân tán, tư bản có được xã hội hoá, quyền lực khống chế trực tiếp đối với tư bản có chuyển vào tay các pháp nhân kinh tế, thì lợi ích của tư bản sở hữu không vì thế mà không đảm bảo. Tư bản tài chính ngày càng mở rộng và bành trướng thế lực của mình ra toàn bộ nền kinh tế thé giới. Quyền lực của tư bản tài chính còn được tăng cường hơn nữa bởi có sự dung hợp của nhà nước với tư bản tài chính, giữa sức mạnh của tư bản tài chính với sức mạnh của nhà nước tư sản, tạo nên hình thức mới là tư bản tài chính nhà nước. Ngày nay tư bản tài chính nhà nước đã bao trùm hầu như toàn bộ nền kinh tế xã hội. Chúng khống chế cả theo chiều dọc và chiều ngang, xuyên qua tất cả các xí nghiệp, các ngành, các khu kinh tế và các quốc gia tạo thành một mạng lưới liên hệ kinh tế chằng chịt neo chặt những mảng kinh tế chủ yếu vào một khối thống nhất chịu sự chi đạo của tư bản tàI chính nhà nước. Từ đó mà tư bản tài chính ngày càng bành trướng, nó tạo điều kiên thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra thích ứng tương đối giữa quan hệ sản xuất TBCN với sự phát triển cao của sức sản xuất xã hội, đồng thời cũng làm tăng nguy cơ xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sự biến đổi trong quan hệ phân phối Để thoát khỏi khủng hoảng, các nhà kinh tế học của CNTB, đại biểu là J. M. Keynes đã chủ trương kích cầu bằng cách nâng cao tiêu dùng và tăng đầu tư, việc nâng cao tiền lương và cải thiện đời sống của công nhân không những không tổn hại đến lợi nhuận của nhà tư bản mà nó còn có lợi cho quá trình tái sản xuất mở rộng TBCN, làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, thúc đẩy sản xuất có lợi cho nhà nước tư bản, giữ môI trương xã hội ổn định, củng cố chính trị. Cách mạng khoa học công nghệ chẳng những tạo tiền đề để nâng cao sức sản xuất mà còn tạo ra cơ sở vật chất để nâng cao mức sống người lao động. Thực tế tại các nước tư bản phát triển chủ chốt cho thấy tốc độ tăng lương thực tế của người lao động nhanh hơn tốc độ tăng giá. Trong vòng 30 năm, từ 1960 đến 1990 giá tiêu dùng của Mỹ tăng 4, 5 lần, tiền lương giờ công nhân ngành chế tạo tăng 9, 5 lần; tương tự như vậy ở các nước Canada: 5 lần và 7, 3 lần, Nhật Bản: 3, 5 lần và 51, 4 lần, Pháp: 7 lần và 19 lần. Cộn hoà liên bang Đức: 2, 7 lần và 28 lần, Italia: 13, 4 lần và 28, 9 lần, Anh: 10 lần và 16 lần. Cùng với việc tăng lương thực tế, đời sống của công nhân được nâng cao, kết cấu tiêu dùng của công nhân cũng có sự thay đổi lớn, tỷ lệ chi cho ăn, mặc giảm xuống, chi cho cải thiện đời sống tăng lên. Hiện nay không còn hiện tượng thiếu ăn thiếu mặc (trừ những trường hợp cá biệt do nghiện ngập, bệnh tâm thần…. ). Việc sử dùng hàng tiêu dùng lâu bền như điện thoại, vô tuyến, máy giặt, ô tô, nhà ở. . . đều tăng lên và được cảI thiện rất nhiều. Tuy nhiên, tương quan giữa việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người công nhân với việc nâng cao khối lượng lợi nhuận của nhà tư bản là tương quan cùng chiều nhưng không cùng mức độ. Thu nhập của nhà tư bản tăng nhanh hơn thu nhập thực tế của người lao động. Đức, trong thời gian 1980 -1989 thu nhập tiền lương của người lao động làm thuê tăng bình quân hàng năm là 3, 7%, thu nhập kinh doanh xí nghiệp và tài sản bình quân hàng năm tăng 7, 4%. Theo báo cáo tổng thống Mỹ 1992 cho thấy, thu nhập bình quân của 20% hộ ở bậc cao nhất so với 20% hộ ở bậc thấp nhất chênh lệch 44, 8 lần (trước khi nhà nước tái phân phối) 34, 4 lần (sau khi điều tiết qua thuế) 6, 6 lần (sau khi điều tiết qua thuế và các khoản trích nộp khác). ở Anh, khoảng chênh lệch giữa các hộ giàu và hộ nghèo là 3, 8 lần. Mức độ chiếm dụng tài sản của các hộ giàu ở Mỹ ngày càng tăng, năm 1963: 10% số hộ giàu chiếm 65% toàn bộ của cải của tất cả các gia đình Mỹ năm đó, năm 1983 tỷ trọng cảu cải của 10% hộ giàu chiếm 68, 8%. Và hiện nay 20% số người nghèo nhất chiếm tổng thu nhập 3, 8% trong khi đó 30% số người giàu nhất lại chiếm tới 48%. Như vậy, mặc dù đời sống của công nhân có được nâng lên, nhưng chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa công nhân và tư bản càng tăng. Việc tăng lương thực tế, tăng mức sống của công nhân chỉ là nhằm tăng lên mức cầu hiệu quả có lợi cho quá trình tái sản xuất của CNTB mà thôi. Do vậy, trong lòng CNTB vẫn chứa đựng những xung đột lợi ích gay gắt, vẫn chứa đựng khả năng khủng hoảng, đòi hỏi nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích, mới có thể cứu vãn được CNTB. Điều chỉnh quan hệ lợi ích của nhà nước được diễn ra bắt đầu từ những tác động vào thị trường sức lao động, thông qua quan hệ mua bán giữa người bán (người lao động) và người mua (nhà tư bản). Đây là một thị trường luôn biến động bởi mối tương quan giữa nhà tư bản và người lao động, giữa giới chủ và người thợ, là mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn không thể thay thế cho nhau được. Sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ trao đổi, mua bán này bằng cách quy định các mức tối thiểu, độ dài ngày lao động, số ngày nghỉ việc trong năm, quy tắc sa thải, quy chế làm việc trong doanh nghiệp, phương tiện bảo hộ, bằng các luật và các quy định pháp luật khác nhau. Những biến đổi trong quan hệ lợi ích trong CNTB hiện đại đã và đang đem lại những cải thiện mới đối với đời sống người lao động và những tiến bộ xã hội nói chung. Sở dĩ có sự tăng thêm đó thì nói chung vì sự trao đổi sản phẩm diễn ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi này làm cho dân cư ở thành thị và nông thôn, dân cư ở các khu vực địa lý khác nhau…. . cũng tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Sở dĩ có sự tăng thêm đó lại còn là vì mật độ và sự tập trung đông đúc giai cấp công nhân, làm cho trình độ giác ngộ và ý thức về nhân phẩm của giai cấp đó được nâng cao khiến họ có thể đấu tranh thắng lợi chống những xu hướng tham tàn của chế độ TBCN. Trong CNTB hiện đại, quan hệ sản xuất đã có sự điều chỉnh. Đây là sự điều chỉnh theo hướng xã hội hoá sản xuất ngày càng tăng, là cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN. Quan hệ sở hữu được giải quyết theo hướng xã hội hoá ngày càng nhiều, quản lý dân chủ hơn, phân phối lợi ích đã chú ý tới người lao động và được coi là nguồn lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Đặc biệt, hình thức tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất TBCN, là kết quả của quá trình xã hội hoá sản xuất là “sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội”. Sự điều chỉnh này là một quá trình khách quan buộc các nhà tư sản phải đưa ra những hình thức quan hệ sản xuất thích hợp, vừa là để thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, đảm bảo lợi ích của tư bản độc quyền, vừa là để làm dịu bớt những mâu thuẫn căng thẳng xã hội, duy trì sự tồn tại và phát triển của CNTB. 4. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại, xu hướng biến đổi cơ chế Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cường vai trò điều chỉnh của nhà nước tư bản bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, khiến trình độ xã hội hoá tăng lên một cách mạnh mẽ, làm cho độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã đưa tới sự ra đời của nhiều ngành mới như: điện tử, năng lượng, hàng không vũ trụ. Phát triển những ngành này một mặt đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn, cơ sở hạ tầng hiện đại, đội ngũ những người lao động lành nghề co tri thức cao được đào tạo toàn diện, trong khi điều này các nhà tư bản không thể tự giảI quyết dược và mặt khác, chính sự ra đời của những ngành sản xuất mới đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ để định hướng cho sự phát triển, đồng thời nó còn đòi hỏi những khoản đầu tư lớn cho việc nghiên cứu khai triển, đào tạo và đào tạo lại, xây dựng kết cấu hạ tầng mới. Những việc này chỉ có nhà nước mới giải quyết nổi. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh, sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn mới mang tính quốc tế, chỉ có nhà nước mới đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối hợp được các hoạt động mang tính quốc tế. Ngoài ra, để đối phó với những biến động kinh tế, chính trị, xã hội, diễn ra trong và ngoài nước như: khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh chạy đua kinh tế và quốc phòng anh ninh trong việc đối đầu với phong trào giải phóng dân tộc và đối phóvới những cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp và những khuyết tật của cơ chế thị trường, không ngoài ai khác là nhà nước phải trực tiếp can thiệp vào các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội để đảm bảo cho sự vận động bình thường của nền kinh tế. Sự chuyển biến nền kinh tế của các nước tư bản từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trường hoạt động của nhà nước. Chính sách thuế khoá và những quy định về đầu tư cũng như các chính sách kinh tế nói chung cần phải đáp ưng được nhiều hơn bao giờ hết các thông số của nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã mở ra những cơ hội mới cho phép mở rộng vai trò của thị trường. Những thay đổi này làm cho chính phủ có một vai trò mới va khác biệt. Nó không còn là người đảm bảo độc nhất nữa mà trở thành người tạo điều kiện và người điều tiết hoạt động xã hội. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện trên cơ sở xác định lại vai trò của nhà nước. Mục tiêu của cuộc cải cách hành chính là thực hiện “chính phủ gọn nhẹ”, cơ cấu lại bộ máy chính quyền trung ương, thực hiện phi tập trung hoá, phân cấp mạnh mẽ hơn cho chính quyền địa phương. Chính phủ trước đây vừa là người cầm lái vừa là người bơi chèo con thuyền quốc gia. Ngày nay, cầm lái và bơi chèo được tách riêng ra. Chính phủ cầm lái chứ không phải là bơi chèo. Việc cầm lái đòi hỏi phải có những người nhìn nhận được toàn bộ tổng thể các vấn đề và các khả năng có thể cân đối được các yêu cầu trái ngược nhau về nguồn lực. Việc bơi chèo đòi hỏi phải có những người chú ý tập chung vào một nhiệm vụ và thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Các tổ chức cầm lái cần phải tìm ra những phương pháp tốt nhất để đạt được những mục tiêu của mình. Xã hội hoá và tư nhân hoá là con đường làm giảm nhẹ gánh nặng của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội, làm cho chính phủ gọn nhẹ, chỉ tập chung vào việc cầm lái. Nhà nước không teo đi mà trái lại, mạnh mẽ, chắc chắn và năng động hơn. Nhà nước “thực hiện” và “thi hành” được thay bằng một nhà nước “cai trị “ mạnh vì nó chỉ làm cái việc quyết định và lãnh đạo và việc thực hiện giao nhiệm vụ cho người khác. Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản, giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển, thúc đẩy cạnh tranh và kích thích cạnh tranh. 4. 1. Trước hết, bắt đầu từ những năm 1980, các nước phương Tây lần lượt bắt tay thực hiện tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh. Bởi vì hiệu quả phần lớn của xí nghiệp quốc doanh không cao, tài chính quốc gia phải chịu gánh nặng; năng suất lao động của các xí nghiệp quốc doanh thấp khó mà đương đầu được cạnh tranh quốc tế gay gắt; trước trào lưu thông tin hoá từ công nghệ đến quản lý, các xí nghiệp quốc doanh đều tỏ ra rất lạc hậu. Họ cho rằng, con đường duy nhất để cứu vãn cục diện đó là thực hiện tư nhân hoá. 4. 2. Thứ hai, nhà nước chuyển từ kiểm soát sang điều tiết thận trọng trong lĩnh vực tài chính theo hướng tự do hoá. Khu vực tài chính đã thay đổi nhanh chóng. Sự phát triển theo chiều sâu của khu vực tài chính của một nước là nhân tố hùng mạnh quy định và thúc đẩy sự phát triển. Tuy nhiên, tự do hoá trong khu vực tài chính không giống với phi điều tiết. Có những lý do xác đáng để điều tiết ngân hàng. Nhưng mục tiêu điều tiết đã được thay đổi, trước kia điều tiết ngân hàng là do tín dụng chạy theo các kênh được yêu thích, còn nay là để bảo vệ sức mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng. 4. 3. Thứ ba, điều tiết mở rộng cạnh tranh các ngành dịch vụ công cộng Điều tiết của nhà nước có vai trò nổi bật đối với vai trò của các ngành dịch vụ công cộng. Điều đó là sự thay đổi có tích chất cách mạng về công nghệ và tổ chức chứ không chỉ do những chuyển biến có ý thức về chính sách. Lập luận về sự điều tiết các ngành dịch vụ công cộng thường thấy rõ ràng. Các ngành dịch vụ có những độc quyền tự nhiên. Do đó, nếu chúng không điều tiết thì các tư nhân làm dịch vụ sẽ trở thành độc quyền, hạn chế sản lượng và làm tăng giá cả, gây tác hại cho tính hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế và việc phân phối thu nhập. Những tài sản của một ngành dịch vụ là nhân tố quyết định đối với hoạt động kinh doanh của ngành đó và không thể được tái triển khai sử dụng cho những mục đích khác. Điều này khiến các ngành dịch vụ đặc biệt dễ tổn thương trước các hoạt động điều tiết của nhả nước. 4. 4. Thứ tư, cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế Chế độ xã hội cơ bản của các nước phương Tây là chế độ tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế của nó là nền kinh tế thi trường tư bản chủ nghĩa phát triển. Nhưng tình hình các nước không giống nhau, cơ chế kinh tế của họ cũng có sự khác nhau, mô hình kinh tế của mỗi nước có nét độc đáo riêng của mình. Giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ yếu do quan hệ nhà nước và thị trường, cũng như do phương châm, chính sách, phương thức và trọng điểm nhà nước can thiệp vào kinh tế ở mỗi nước một khác, mà hình thành nên các mô hình kinh tế có đặc sắc riêng. Nói chung người ta cho răng mô hình kinh tế thị trường TBCN ở các nước phát triển hiện nay có thể chia ra làm mấy loại sau dây: mô hình Mỹ hoặc gọi là mô hình thị trường tự do; mô hình Nhật Bản hoặc gọi là mô hình tư bản pháp nhân, cũng có người gọi là mô hình tư bản xã hội; mô hình Đức hoặc gọi là mô hình kinh tế thị trường xã hội; mô hình Bắc Âu hoặc còn gọi là mô hình nhà nước phúc lợi. Trong nửa thế kỷ sau chiến tranh thế giới lần hai, các mô hình kinh tế thị trường TBCN khác nhau này đều có vai trò nhất định trong sự phát triển kinh tế xã hội của các nước, đã thúc đẩy kinh tế phát triển, làm dịu mâu thuẫn kinh tế và xã hội, giữ vững sự ổn định tương đối của xã hội. Nhưng những mô hình này cũng tồn tại một số khuyết điểm và hạn chế. Nếu cải cách cơ chế quản lý xí nghiệp ở các nước tư bản là những biến đổi nào đó được tiến hành nhằm làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với lực lượng sản xuất ở tầng vĩ mô, thì cải cách cơ chế kinh tế lại là cuộc cải cách được tiến hành nhằm làm cho quan hệ sản xuất thích ứng sự phát triển mới của lực lượng sản xuất trên tầng vĩ mô và giữa chúng có liên hệ qua lạivà thúc đẩy lẫn nhau. Cuộc cải cách cơ chế kinh tế của các nước TBCN biểu hiện trên tất cả các mặt. Trước hết, tư tưởng chỉ đạo và phương châm chính sách của sự can thiệp và điều chỉnh của nhà nước đối với kinh tế vĩ mô đã có sự thay đổi. 4. 5. Thứ năm, tiến hành cải cách thể chế kinh tế Trọng điểm cũng như bước đi và biện pháp mà các nước áp dụng không giống nhau, nhưng nói chung, ngoài việc cải cách xí nghiệp quốc doanh như đã nói trên còn cải cách hệ thống tài chính và thuế nhằm giảm bớt thâm hụt ngân sách; cải cách hệ thống tiền tệ nhằm ổn định hệ thống tiền tệ, cải cách chế độ tiền lương lao động để hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, cải cách chế độ phúc lợi xã hội nhằm giảm nhẹ gánh nặng tài chính của nhà nước, điều chỉnh quan hệ giữa Trung ương và địa phương, giao nhiều quyền lực của Trung ương cho địa phương, để địa phương đảm nhiệm nhiều hơn các nhiệm vụ y tế, giáo dục đào tạo…. cải cách chế độ mậu dịch đối ngoại, giảm bớt các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50800.DOC
Tài liệu liên quan