Tiểu luận Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

 

Mục lục

Nội dung Trang

Lời mở đầu 4

1.Kinh tế hàng hoá- Kinh tế thị trường 6

1.1.Tính tất yếu của kinh tế hàng hoá trong quá trình đi lên CNCS 6

1.2.Kinh tế thị trường- nấc thang phát triển cao hơn của KTHH 7

1.2.1.Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa 8

1.2.2.KTTT định hướng XHCN và KTTT XHCN 9

1.2.2.1.Kinh tế thị trường XHCN 10

1.2.2.2.Kinh tế thị trường định hướng XHCN 11

2.Đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 13

2.1.KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hai mặt kinh tế- xã hội ngay trong từng bước phát triển. 14

2.2.Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo 16

2.3.Nhà nước quản lý nền KTTT ở nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam 17

2.4.Sự vận hành của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là sự kết hợp chặt chẽ giữa thị trường và kế hoạch 19

3.Quá trình nhận thức và phát triển KTTT định hướng XHCN 20

3.1.Lịch sử quá trình phát triển của mô hình CNXH 20

3.1.1.Lịch sử của mô hình CNXH 20

3.1.2.Chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX 21

3.1.3.Thời đại đang chín muồi của CNXH 22

3.2.Quá trình nhận thức và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 24

4.Thực trạng kinh tế Việt Nam với mô hìnhKTTT định hướng XHCN 25

4.1.Những thành tựu của mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 25

4.2.Những mặt hạn chế sau một thời gian đổi mới 27

5.Một số giải pháp để phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN 30

5.1.Giữ vững ổn định chính trị 30

5.2.Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật kinh tế 31

5.3.Mở rộng phân công lao động, phân bố lao động và dân cư 31

5.4.Thực hiện nhất quán cơ cấu kinh tế nhiều thành phần 31

5.5.Tạo lập và phát triển động bộ các yếu tố thị trường 32

5.6.Phát triển nền kinh tế theo hướng CNH – HĐH 32

5.7.Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển KTTT 33

5.8.Con người là nhân tố quan trọng trong phát triển LLSX 33

Kết luận 34

 

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13789 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thị trường, vừa mang những nét riêng.Ngoài những nét chung của KTTT như: - Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. - Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. - Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…Sự tác động giữa các quy luật tạo nên cơ chế điều tiết của nền kinh tế. - Kinh tế thị trường hiện đại còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua luật pháp kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta còn có những nét đặc trưng: 2.1.Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hai mặt kinh tế – xã hội ngay trong từng bước phát triển. Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác phải nói đến mục tiêu kinh tế- xã hội mà nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động, phát triển của nền KTTT. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã quy định tính tất yếu khách quan phải định hướng XHCN cho nền KTTT ở nước ta. Đó chính là sự khác biệt rõ nét nhất giữa KTTT nước ta với KTTT các nước khác. Sự khác biệt này được Đảng chỉ rõ trong Đại hội IX: “Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.”(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG 1995-1996,T8,trang 493. Trong nền KTTT nước ta, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đạt tới nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, ổn định nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” góp phần phát huy mọi tiềm năng, sức lực trong xã hội, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và cho toàn xã hội. Đây cũng chính là nội dung, yêu cầu phát triển rút ngắn ở nước ta hiện nay. Đồng thời với việc khai thác triệt để những mặt tích cực, những lợi thế của KTTT, chúng ta khắc phục, ngăn ngừa, hạn chế những mặt tiêu cực phát sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường: vừa kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, vừa bảo vệ lợi ích của nhân dân và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động; vận dụng các quy luật của thị trường để kiên trì thực hiện công bằng xã hội, giải quyết vấn đề công bằng, tiến bộ xã hội cải thiện đời sống nhân dân phù hợp với từng bước tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện công bằng trong phát triển con người.Theo đó có thể coi phát triển trong công bằng là một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Chúng ta không đợi khi KTTT phát triển mới giải quyết công bằng xã hội mà có thể và cần phải giải quyết nó trong từng bước phát triển của nền kinh tế, sản xuất gắn liền với đời sống nhân dân, thu nhập kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liềnvới xoá đói giảm nghèo.Phát triển trong công bằng là sự phát triển mà mọi tầng lớp nhân dân đều có điều kiện để tham gia và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng, trí tuệ họ bỏ ra, bảo đảm cơ bản về cơ hội cho người dân tham gia các hoạt động kinh tế xã hội. Phát triển trong công bằng được hiểu là cả hai mặt kinh tế và xã hội của thị trường phải được chủ động kết hợp với nhau thông qua luật pháp , chính sách kinh tế và chính sách xã hội cả tầm vĩ mô và vi mô. Cái khác cơ bản của thị trường XHCN là thu hẹp dần sự phân biệt giàu nghèo. Công bằng về phân phối thu nhập đã tạo ra và là nguồn gốc của mọi công bằng khác như công bằng về chăm sóc y tế, về học hành…Muốn vậy phải vận dụng các quy luật thị trường để kiên trì thực hiện công bằng xã hội chứ không phải ra những mệnh lệnh hành chính thay cho thị trường hay dùng một bộ máy phân phối thay cho thị trường, phải dùng luật pháp để cho quy luật phân phối theo lao động dần dần được phát huy tác dụng ngày càng cao hơn kiểu tư bản. Để đạt tới công bằng trong phân phối thu nhập , chúng ta thực hiện các hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, hiệu suất công tác, phân phối theo mức góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý nhằm thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu- nghèo, vừa khuyến khích lao động, vừa đảm bảo những phúc lợi xã hội cơ bản. 2.2.Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế thị trường nước ta trong thời kỳ quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế trên cơ sở các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân). Mỗi thành phần kinh tế có mục đích cụ thể khác nhau nhưng đều phải chịu sự chi phối và kiểm soát, định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta với tư cách là đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, đồng thời nắm trong tay các mạch máu quan trọng có đủ điều kiện hướng dẫn điều tiết, kiểm soát tất cả các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN nhằm mục đích dân giàu nước mạnh mọi người sống hạnh phúc có văn hoá, kỷ cương. Vì vậy, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật được tạo môi trường và điều kiện cho sản xuất kinh doanh được khuyến khích phát triển nhưng mỗi chủ thể kinh tế đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa bao gồm các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng của toàn bộ nền kinh tế đóng vai trò chủ đạo là chỗ dựa để nhà nước quản lý điều tiết hướng dẫn sản xuất hàng hoá cuả các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh cũng như mọi thành phần kinh tế khác phải đương đầu với thị trường, chịu sự chi phối của các quy luật thị trường. Để làm tốt vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước phải khắc phục hạn chế quản lý hành chính, làm chủ thị trường bằng nghệ thuật quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất hàng hoá của các thành phần kinh tế khác. Trong thời kỳ quá độ tiềm năng của những thành phần kinh tế này còn lớn , có vai trò quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra công việc và sản phẩm hàng hoá cho xã hội, góp phần giải quyết những khó khăn kinh tế- xã hội. Nhưng sản xuất hàng hoá của các thành phần kinh tế đó đều có cơ sở chung là dựa trên chế độ tư hữu không thể tránh khỏi việc chạy theo lợi nhuận và khuynh hướng tự phát tư bản. Bởi vậy chủ trương và chính sách khuyến khích phát triển kinh doanh và làm giàu chính đáng nhưng nhà nứơc phải sử dụng những biện pháp thích hợp để ngăn chặn khuynh hướng tự phát tiêu cực, hướng các thành phần này theo con đường xã hộ chủ nghĩa. Tóm lại, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ mặc dù mỗi thành phần kinh tế, mỗi loại sản xuất hàng hoá có bản chất xã hội riêng song chúng đều là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hình thành và chịu sự chi phối của một thị trường xã hội thống nhất, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lẫn nhau dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa. 2.3.Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường ở nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong nền KTTT hiện đại nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế là xu hướng khách quan. Nhưng khác với bản chất của nhà nước tư sản, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chính điều này đã làm cho KTTT nước ta khác KTTT TBCN về bản chất và mô hình. Nền kinh tế ấy đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dưới sự quản lý của nhà nước XHCN Việt Nam nhằm hạn chế, khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được. Đảng cộng sản và nhà nước XHCN Việt Nam đã tìm ra mô hình KTTT của riêng mình. Đây là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong định hướng XHCN đối với nền KTTT. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhân tố quyết định nhất đảm bảo định hướng XHCN của nền KTTT cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển đất nước. Đảng phải khẳng định vai trò của mình bằng cơ chế lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của nền KTTT. Đảng định hướng KTTT theo CNXH thể hiện ở sự lãnh đạo, việc thực hiện đường lối, chính sách KTTT với mục tiêu vì lợi ích của nhân dân, vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Qua đó, Đảng uốn nắn những lệch lạc, bổ sung và hoàn chỉnh những chính sách về KTTT, đảm bảo tính chính trị trong sự phát triển của kinh tế. Với sự lãnh đạo chiến lược Đảng phải luôn nghiên cứu, bám sát thực tiễn, đánh giá tình hình thực tiễn, mạnh dạn thử nghiệm và tổng kết thực tiễn, kiểm chứng, hoàn thiện cương lĩnh chiến lược, dự báo một cách khoa học, chính xác về sự phát triển của nền KTTT nước ta. Đây cũng chính là quá trình nâng cao năng lực tổ chức và phương pháp hoạt động thực tiễn của Đảng. Trình độ lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng nền KTTT định hướng XHCN đòi hỏi phải kết hợp được tính nguyên tắc chiến lược và sự mềm dẻo về sách lược. KTTT định hướng XHCN đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nhất quán về định hướng và nguyên tắc, đó là kiên định mục tiêu và con đường XHCN . Sự kiên định đó thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng, đòi hỏi Đảng phải thận trọng trong việc lựa chọn bước đi, trong đó xác định ổn định chính trị là điều kiện, tiền đề để đổi mới kinh tế có kết quả. Những giải pháp để đạt mục tiêu XHCN phải mềm dẻo và linh hoạt, vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên nguyên tắc và bản chất của CNXH trước hết là về sở hữu, tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối; khai thác tối đa những mặt tốt của KTTT để phát triển kinh tế, phát triển xã hội, đồng thời phải có những giải pháp cần thiết nhằm hạn chế hậu quả xã hội do mặt trái kinh tế thị trường gây ra. 2.4.Sự vận hành của nền KTTT định hướng XHCN là sự kết hợp chặt chẽ giữa thị trường và kế hoạch. Trong nền KTTT định hướng XHCN, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tính năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời, chúng ta lãnh đạo, quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng đi lên CNXH để khắc phục thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được. Trong quá trình phát triển KTTT, bất cứ sự thiên lệch về cơ chế nào đều biểu hiện sự chệch hướng. Với sự song hành của cơ chế, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải được thông qua thị trường, chịu sự chi phối của các quy luật thị trường, song phải đặt dưới sự điều tiết của nhà nước bằng các công cụ và quản lý vĩ mô khác. Sức phá hoại, dễ gây thương tổn của cạnh tranh và sự bất lực của cơ chế thị trường phải được bổ sung bằng kế hoạch và hoạt động kiểm soát, điều khiển cân bằng kinh tế vĩ mô của nhà nước. Cần khắc phục quan điểm cực đoan cho rằng thị trường là sản phẩm của CNTB và kế hoạch là đặc trưng riêng của nền kinh tế XHCN. Thực tế, thị trường là sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá nói chung(trong đó có sản xuất hàng hoá XHCN), đồng thời tính kế hoạch là một điều không thể thiếu đối với một nền kinh tế. Tự bản thân công tác kế hoạch hoá đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân không có gì sai. Chỉ có kế hoạch hoá cao độ, tuyệt đối kế hoạch tới mức phủ nhận thị trường mới là sai lầm.Kế hoạch hoá trong nền KTTT nước ta chủ yếu thông qua những công cụ gián tiếp để thực thi kế hoạch thông qua thu nhập, phân tích, dự báo thông tin, phôí hợp kế hoạch ngắn và trung hạn, đưa ra những quyết sách để giải quyết kịp thời, có hiệu quả, tạo cho nền kinh tế phát triển năng động bền vững với tốc độ cao. Nhà nước bằng chính sách và công cụ quản lý vĩ mô, tiềm lực kinh tế của mình dể duy trì những cân đối lớn của nền kinh tế nhằm khắc phục những yếu kém của KTTT. Bằng chính sách ưu đãi có chọn lọc, nhà nước định hướng, phân phối các nguồn lực, các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và dịch vụ vào các mục tiêu được ưu tiên của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. ở đây, yếu tố kế hoạh và thị trường hoà trộn vào nhau, thể hiện tính tự giác cao của quá trình định hướng. 3.Quá trình nhận thức và phát triển KTTT định hướng XHCN: 3.1.Lịch sử quá trình phát triển của mô hình CNXH: 3.1.1.Lịch sử của mô hình CNXH: Trước tiên, phải khẳng định rằng: tư tưởng về CNXH là một phát minh vĩ đại của loài người, là di sản chung của toàn thể nhân loại mà không phát phải phát kiến riêng của những ngừơi cộng sản. Trước Mác và Anghen từ rất sớm, đã xuất hiện những tư tưởng về chế độ xã hội dân chủ, công bằng và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Trong lịch sử do sự căm ghét chế độ tư hữu cùng những bóc lột và nghèo khổ do nó sinh ra, nhiều nhà tư tưởng đã mong muốn lập nên một xã hội mới dựa trên cơ sở công hữu về tài sản để có thể loại bỏ những tệ hại trên.Điều đáng quan tâm là dù chưa có nhận thức về tư tưởng CNXH một cách khoa học nhưng các tư tưởng này chứa đựng quan niệm về nền kinh tế phát triển có kế hoạch. Ngay từ thời cổ Hy Lạp, trong cuốn “Nhà nước lý tưởng” của Platon đã có những mầm mống đầu tiên của tư tưởng về CNXH. Về sau, một số tác phẩm khác cũng mang tư tưởng này như: “Utopia”, “Thành phố mặt trời”. Vào đầu thế kỷ XIX, các nhà không tưởng Pháp như: Xanhximong, Phurie,Ooen… đã có công phát triển lên một bước cao tư tưởng về CNXH và mô hình CNXH dựa trên phát triển kinh tế theo kế hoạch chung, thống nhất toàn xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng của các ông chỉ dừng lại ở mong muốn tốt đẹp bởi không có cơ sở hiện thực. Tiếp thu tư tưởng của những nhà tiền bối Mác và Ănghen đã có công đưa lý luận về CNXH từ không tưởng trở thành khoa học. Mô hình CNXH của hai ông cũng dựa trên tiền đề về nhận thức tình trạng bóc lột và phân phối không công bằng bắt nguồn từ chế độ tư hữu. Tính khoa học trong lý luận của hai ông là ở luận điểm tính tất yếu của cách mạng XHCN về con đường xây dựng CNXH. Theo các ông CNXH ra đời phải qua hai giai đoạn:giai đoạn thấp vừa mới thoát thai từ CNTB bao gồm thời kỳ quá độ lên CNXH, giai đoạn cao là CNCS chín muồi phát triển dựa trên cơ sở của chính nó. 3.1.2.Chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX: Tiếp tục phát triển tư tưởng khoa học của Mác và Ănghen trong điều kiện CNTB chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và triển khai công cuộc xây dựng CNXH trong thực tiễn, Lênin đã có những điều chỉnh quan trọng về mô hình CNXH khi áp dụng ở nước Nga và chuyển từ CNCS thời chiến sang chính sách kinh tế mới(NEP). Theo Lênin, công cuộc xây dựng CNXH ở một nước tương đối lạc hậu như Nga cần phải dùng quan hệ hàng hoá và nền kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt sử dụng CNTB nhà nước như một hình thức quá độ để phát triển mạnh mẽ các lực lượng sản xuất xã hội. Tuy chỉ được áp dụng trong thời gian ngắn và chưa được tổng kết về mặt lý luận, nhưng NEP đã đem lại kết quả tích cực: hồi phục làm sống lại nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh, cũng như nhanh chóng ổn định lại nền kinh tế- xã hội nước Nga. Nhưng điều quan trọng là lần đầu tiên mô hình CNXH được xây dựng trên thực tế có sử dụng KTTT. Tiếc rằng tư tưởng của Lênin về giai đoạn đầu xây dựng CNXH, có chính sách NEP sau đó ít lâu đã nhanh chóng bị xoá bỏ. Lấy lý do là Liên Xô kết thúc thời kỳ quá độ chuyển sang xây dựng CNXH giai đoạn cao, đã triển khai triệt để mô hình CNXH chín muồi. Nói chính xác hơn đây là mô hình chủ nghĩa xã hội Xtalin với những đặc trưng: công hữu hoá và kế hoạch hoá tập trung cao độ, thực hiện phân phối thu nhập bình quân, triệt để loại bỏ hàng hoá- tiền tệ và thị trường. Hơn nữa, những kinh nghiệm có tính đặc thù về xây dựng CNXH ở Liên Xô lại được tuyệt đối hoá thành công thức chung áp dụng cho nhiều nước Đông Âu và sau này là á- Phi – Mĩ Latinh hãy còn lạc hậu cũng bước lên con đường CNXH. Nhưng từ thực tiễn chưa nhiều đã buộc một số nước Đông Âu phải điều chỉnh lại theo mô hình CNXH thị trường. Có thể coi đây là mô hình CNXH có sử dụng cơ chế thị trường thứ hai được các nhà kinh tế học Hungari đề xuất với những điểm cốt lõi là vẫn giữ nguyên các xí ngiệp quốc hữu, nhưng phải tạo cho chúng những điều kiện hoạt động của thị trường, tức CNXH thị trường.Những điều kiện – biện pháp được nêu là: xác lập chế độ giá cả thị trường; lựa chọn quy mô tối ưu của xí nghiệp; thành lập thị trường sức lao động; hạn chế các xí nghiệp bằng ngân sách cứng; bảo hộ kinh doanh tư nhân và bãi bỏ độc quyền; điều chỉnh hệ thống chính trị và quyết sách vĩ mô cho phù hợp với thể chế kinh tế. Như vậy, lịch sử hơn 70 năm tồn tại và phát triển của CNXH cho thấy rằng: ngay từ khi mới ra đời, CNXH đã luôn tìm tòi để đổi mới. Nhưng tiếc rằng những ý đồ giáo điều, bảo thủ đã thắng thế. Cũng do sự chậm đổi mới khiến CNXH bị va vấp nặng nề trong thực tiễn và sụp đổ. Nhưng thật ra đó chỉ là mô hình cụ thể của CNXH bị thất bại chứ không phải là CNXH nói chung- mô hình lấy thể chế kinh tế kế hoạch hoá làm trung tâm, trong sự đối lập với thể chế kinh tế thị trường. Điều này cũng có nghĩa chúng ta phải điều chỉnh tư duy về CNXH, phải tiếp tục công cuộc tìm kiếm mô hình mới của CNXH, chứ hoàn toàn không phải CNXH đi vào ngõ cụt và đến hồi kết thúc. Hơn nữa, bài học lịch sử gợi ý cho chúng ta tìm tòi mô hình mới của CNXH theo hướng sử dụng cơ chế thị trường. 3.1.3.Thời đại đang chín muồi của CNXH: Cần phải khẳng định ngay rằng nền KTTT tư bản chủ nghĩa hiện đại hay nền kinh tế hỗn hợp khác rất xa với nền KTTT cổ điển đã lùi vào quá khứ: KTTT cổ điển dựa trên cơ cấu quyền tài sản phân tán và sự cạnh tranh tự do; còn KTTT hiện đại dựa trên cơ cấu về tài sản vừa phân tán, vừa tập trung, độc quyền hoá và sự điều khiển của nhà nước. Hơn nữa, trong lòng KTTT hiện đại đang tích tụ những yếu tố phủ định nó và đang chín muồi những điều kiện- tiền đề cho sự ra đời một chế độ kinh tế mới: Kinh tế hậu thị trường, hậu công nghiệp với những nguyên tắc xã hội hoá- XHCN. Xã hội hoá sản xuất TBCN được giải thích theo những cách khác nhau tuỳ theo góc nhìn và lợi ích giai cấp mà tác giả đại diện. Có xu hướng giải thích xã hội hoá TBCN như sự hội tụ và thống nhất giữa CNTB và CNXH bằng cách thống nhất những điểm tích cực của cả hai mô hình hoặc bằng cách bổ sung( kết hợp) về kết cấu kinh tế giữa chúng; tuy nhiên, lập luận này tỏ ra thiếu căn cứ , nhất là từ khi CNXH hiện thực sụp đổ. Hiện nhiều học giả nghiêng về quan điểm giải thích xã hội hoá như là sự tự phủ định biện chứng của CNTB; từ đây, sự ra đời xã hội mới với những nét định hướng XHCN được coi là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá TBCN. Tựu trung, xã hội hoá TBCN hiện đại có những đặc trưng nổi bật: trước hết, mở rộng tất cả những hình thức xã hội hoá theo quan niệm Maxits; hai là, phát triển các hình thức sở hữu đa dạng đặc biệt, có sở hữu tập thể lao động và sở hữu nhà nước. Tổng kết lại ở các nước đang phát triển hình thành 4 khuynh hướng xã hội hoá chủ yếu: tính kế hoạch kinh tế và cùng đi với nó là vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước ngày càng tăng; sự phân phối lại thu nhập quốc dân một cách phổ biến với quy mô lớn có tính tới lợi ích của người lao động nhằm làm hoà dịu các xung đột xã hội; phát triển kinh doanh cá thể dựa trên sự hợp tác của các chủ thể kinh tế riêng, ví dụ như: hình thành các HTX trang trại, HTX tín dụng và dịch vụ, sửa chữa máy móc- kỹ thuật…; cuối cùng, kinh doanh tập thể dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau của tập thể những người lao động. Theo quan niệm của Mác thì không nên hiểu giản đơn CNXH chỉ là chống lại hay đối lập với CNTB , bởi sẽ không có phát triển nếu không có kế thừa. Do đó, KTTT và CNXH chỉ là những nấc thang tiến hoá và xã hội hoá sản xuất , giữa chúng không có những ranh giới phân cách không thể vượt qua. Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới ngày nay đang hé mở những vận hội và khả năng to lớn mà thời đại Mác chưa thể dự báo hết: do sự phát triển của khoa học- kỹ thuật, công nghệ … đang hình thành một kiểu xã hội mới nào đó không tuân theo nguyên tắc và quy luật thông thường của KTTT. Đó là xã hội hậu công nghiệp, xã hội hậu thị trường với các nguyên tắc xã hội hoá - XHCN. Nói cách khác: Đó là tính chất XHCN của bước quá độ toàn nhân loại hiện nay cho dù những chủ thể tham gia tích cực vào quá trình này chủ yếu là các nước TBCN. Mỗi dân tộc và các tiến trình cục bộ đều chi phối bởi tính quy luật chung tổng quát trên. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá thì sự phát triển chỉ có thể thành công nếu hòa mình vào dòng chảy chung và hội nhập với quần thể thế giới. Bước quá độ sang KTTT trong điều kiện hậu XHCN cũng không thể có ngoại lệ và nằm ngoài quy luật chung tổng quát trên. Theo ý nghĩa này thì CNXH được coi là định hướng chiến lược chung, khách quan cho mọi tiến trình quá độ trong thời đại ngày nay: bước quá độ sang xã hội hậu công nghiệp- hậu thị trường trong các nước TBCN phát triển và bước quá độ sang KTTT trong các nước XHCN cũ. 3.2. Quá trình nhận thức và phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: Nước ta nguyên là một nước thuộc địa nửa phong kiến, vấn đề sống còn đặt ra cho nhân dân ta là độc lập cho dân tộc. Có áp bức thì có đấu tranh, nhân dân ta nhiều phen nổi dậy, nhiều nhà yêu nước trăn trở vận nước, nhưng rút cục cũng không có lối ra. Chỉ khi Bác Hồ và Đảng dâng cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH phù hợp với xu thế của thời đại mới có lối thoát. CNXH ban đầu đến với nhân dân ta chỉ là ước mơ,nguyện vọng nhưng nó đã nâng lòng yêu nước lên tầm cao của thời đại, đưa lại kết quả thực tế là làm cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến chống Pháp,Mỹ thắng lợi , giải phóng hoàn toàn đất nước. Tiếp đó là xây dựng CNXH trong cả nước. Như vậy, CNXH đi vào lịch sử dân tộc ta như một quá trình lịch sử tự nhiên gắn liền với độc lập dân tộc, tạo điều kiện căn bản cho sự nghiệp cứu nước và giữ nước mở đường đưa đất nước tiến lên theo xu thế phát triển của thời đại. Quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, một nước có trình độ xuất phát thấp, trong giai đoạn đầu hết sức khó khăn. Bởi vì, kinh tế nước ta còn nghèo nàn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào viện trợ của nước ngoài (nhất là Liên Xô). Do đó, nước ta chịu ảnh hưởng nhiều từ bên ngoài. Thời gian đầu của quá trình xây dựng đất nước tiến lên CNXH, nước ta áp dụng mô hình XHCN một cách dập khuôn, máy móc của Liên Xô. Kết quả là một thời gian dài nước ta sống trong nghèo đói, nền kinh tế bị kìm hãm không phát triển được. Mặt khác, việc thực hiện chính sách đó đã gây ra những tệ nạn trong xã hội như: tham nhũng, quan liêu, cửa quyền... Ngày xưa người ta vẫn thường hay nói: “trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà”, hay “Mỗi người làm việc bằng hai để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe; mỗi người làm việc bằng ba để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân”...Cũng là để nói về những tệ nạn đó trong xã hội. Và cũng chính tư tưởng chối bỏ một cách thái quá nền kinh tế thị trường mà thời bấy giờ có bao nhiêu chuyện đáng tiếc xảy ra như: sẵn sàng quy địa chủ và bắt bớ tất cả những ai giàu có bất kể họ có là địa chủ hay không: “Trí phú cường hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”; hay khinh thường nghề buôn bán với tư tưởng “trọng nông khinh thương”...Nhưng những sai lầm đáng tiếc đó âu cũng là trào lưu chung mà thế giới cũng mắc phải. Với trách nhiệm chính trị cao Đảng ta đã tự phê bình nghiêm khắc, rút ra được những bài học sâu sắc và tìm ra được con đường đi đúng đắn cho đất nước: Đó là xây dựng đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và thực tiễn đang dần chứng minh con đường Đảng đã lựa chọn là con đường hoàn toàn đúng đắn đối với nước ta trong thời điểm hiện nay. 4.Thực trạng kinh tế Việt Nam với mô hình KTTT định hướng XHCN: 4.1.Những thành tựu sau khi áp dụng mô hình KTTT định hướng XHCN: Trước năm 1986 ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã có nhận thức không đúng về KTTT và CNXH vì cho rằng chúng đối lập nhau không thể tồn tại, cùng phát triển được. KTTT là sản phẩm của CNTB, vì vậy CNXH không thể xây dựng trên nền tảng của KTTT mà phải xây dựng dựa trên cơ sở nền kinh tế không thị trường. Do những quan niệm trên nên trong một thời kỳ dài, KTTT không thể tồn tại trong ý thức hệ cũng như trong thực tế ở Việt Nam. Trong thời kỳ này mọi hoạt động kinh tế không diễn ra trên thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ bị xem nhẹ, các quy luật của KTTT không được nhận thức vận dụng, các đòn bẩy kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, giá cả, thuế…bị xem nhẹm thay vào đó là quan hệ cấp phát hiện vật, sản xuất theo kế hoạch nhà nước; các chỉ tiêu kinh tế, các quyết định kinh tế được soạn thảo từ nhà nước, làm cho thị trường bị biến dạng đã dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Trải qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tư duy kinh tế của ta đã phát triển và đi đến kết luận quan trọng được ghi trong cương lĩnh mà Đại hội Đảng VII thông qua: “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21119.doc
Tài liệu liên quan