Tiểu luận Đại lý thương mại - Quyền và nghĩa vụ của các bên

Hợp đồng đại lý là một hợp đồng song vụ có tính chất đền bù, do đó quyền và nghĩa vụ của bên đại lý này chính là nghĩa vụ và quyền của giao đại lý. Với tư cách là bên giao đại lý – bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân ủy quyền thực hiện dịch vu cho đại lý cung ứng dịch vụ thì công ty X là thương nhân giao hàng hóa và trở thành bên giao đại lý. Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác giữa công X và công ty Y thì theo quy định của pháp luật công ty Y sẽ có những quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 172 và Điều 173 Luật thương mại năm 2005.

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12016 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đại lý thương mại - Quyền và nghĩa vụ của các bên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án hàng hóa. Đây là nghĩa vụ rất quan trọng của bên đại lý hay nó là một nghĩa vụ mà bên công ty Y rất cần phải quan tâm để thực hiện cho đúng như trong thỏa thuận của hợp đồng đại lý trước đó. Vì đây là đại lý bán nên bên công ty Y có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán cho bên giao đại lý – công ty X. Trong quan hệ đại lý đây là khâu rất quan trọng và rất hay phát sinh tranh chấp có liên quan bởi nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cả công ty Y và công ty X. Hai bên công ty X và công ty Y thỏa thuận về thời hạn thanh toán, nếu không có thỏa thuận cụ thể về thời hạn thanh toán trong hợp đồng đại lý thì áp dụng thời hạn thanh toán theo quy định tại Điều 176 Luật thương mại năm 2005: Việc thanh toán tiền hàng được thực hiện theo từng đợt sau khi bên địa lý hoàn thành việc bán được một khối lượng hàng hóa nhất định, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Trên thực tế, trong hợp đồng đại lý các bên thường thỏa thuận, bên đại lý bán hàng phải thanh toán tiền bán hàng sau một thời hạn nhất định kể từ khi nhận hàng không phụ thuộc vào việc hàng hóa đó có bán được hay không, do đó nếu tình hình kinh doanh của bên đại lý gặp khó khăn, hàng chưa bán được dẫn đến bên đại lý thanh toán  không đúng hạn và tranh chấp giữa hai bên rất dễ phát sinh. Do đó, các bên cần phải thỏa thuận rằng, trong một thời hạn nhất định bên đại lý bán phải thnah toán tiền cho bên gioa đại lý tương ứng với số lượng hàng hóa đã bán được cho khách hàng. Bên cạnh đó theo quy định của pháp luật Việt Nam việc thanh toán chi bên đại lý chỉ được thực hiện trong thời gian hợp đồng đại lý có hiệu lực. Như vậy, nếu có sự thỏa thuận cụ thể giữa hai bên công ty X và công ty Y giống như trên thì thiết nghĩ quan hệ đại lý sẽ được bền vững hơn nhiều. - Công ty Y có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sự theo quy định của pháp luật. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một trong các biện pháp được các thương nhân sử dụng trong giao dịch hàng hóa khi các bên không có quan hệ mật thiết, chưa có độ tin tưởng lẫn nhau. Do vậy, trong quan hệ đại lý thương mại trong những trường hợp như vậy cũng cần sử dụng biện pháp bảo đảm. Nghĩa là, khi bên công ty X chưa thật sự tin tưởng vào khả năng thanh toán của bên đại lý – công ty Y hoặc ngược lại bên đại lý – công ty Y cũng chưa có sự tin tưởng đối với bên giao đại lý thì hai công ty có thể thỏa thuận với nhau áp dụng biện pháp bảo đảm nghĩa vụ phù hợp nhất để đảm bảo quyền và lợi ích của mình một cách tốt nhất. Do đó, khi công ty X ký hợp đồng giao cho công ty Y làm đại lý bán hàng tại tỉnh H thì giữa hai công ty này có thể thảo thuận cụ thể về một biện pháp bảo đảm, có thể là cầm cố, thế chấp, ký cược… Và mọi vấn đề liên quan đến biện pháp bảo đảm được hai bên thỏa thuận áp dụng phải tuân thủ quy định trong Bộ luật dân sự về phần các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. - Công ty Y có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa sau khi nhận; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra; Vì là đại lý bán hàng hóa nên khi bên giao đại lý – công ty X giao hàng hóa cho mình thì công ty Y phải có trách nhiệm bảo quản tất cả số lượng hang hóa đó. Để bảo quản tốt số lượng hang hóa công ty Y cần chủ động trong việc kho, bãi, các điều kiện tối cần thiết khác phù hợp với từng loại mặt hàng hóa được giao để bán. Nếu có bất kỳ vấn đề nào sảy ra trong quá trình bảo quản đối với hàng hóa được nhận thì bên công ty Y – bên đại lý sẽ phải lien đới bồi thường thiệt khi hàng hóa đó đến tay người sử dụng với những thiệt hại sảy ra trừ trường hợp các bên có sự thỏa thuận nào khác.  Mặc dù, Luật thương mại năm 2005 quy định bên giao đại lý “Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ”(khoản 2 Điều 173) nhưng trong trường hợp chất lượng hàng hóa không được đảm bảo do lỗi của bên đại lý thì bên đại lý phải chịu trách nhiệm liên đới, Ví dụ tại thời điểm công ty X giao hàng cho công ty Y hàng hóa bảo đảm chất lượng như bên công ty X công bố. Tuy nhiên trong quá trình bảo quản hàng hóa bên công ty Y không tuân thủ theo hướng dẫn của công ty X nên khi hàng hóa được bán cho khách hàng đã còn đúng tiêu chuẩn, chất lượng như đã công bố. Trong trường hợp này bên đại lý – công ty Y sẽ có trách nhiệm liên đới về chất lượng hàng hóa mặc dù hàng hóa không thuộc sở hữu của bên công ty Y. So với Luật thương mại năm 1997 thì Luật thương mại năm 2005 đã xác định rõ ràng trách nhiệm của bên đại lý đối với chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa. Bên đại lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra chứ không phải chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng và quy cách hàng hóa khi thực hiện hợp đồng đại  lý trong mọi trường hợp như quy định trong Luật thương mại năm 1997. Đây là một điều đáng được nghi nhận. - Công ty Y chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý – công ty X và báo cáo tình hình hoạt động đại lý với bên công ty X. Quy định này cho thấy sự ràng buộc, lệ thuộc chặt chẽ của bên đại lý vào bên giao đại lý. Đây là một điểm quan trọng làm đại lý mua bán hàng hóa khác với ủy thác mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, quy định này trên thực tế đã nảy sinh nhiều bất cập khiến cho các đại lý khốn đốn trong quá trình bán hàng hóa khi bên giao đại lý tham gia vào giữa và trở thành một bên của quan hệ đại lý mới như vụ cocacola là một ví dụ điển hình. Vấn đề này sẽ được đề cập cụ thể ở phần dưới. Như vậy, công ty Y phải báo cáo mọi vấn đề liên quan đến hoạt động đại lý của mình cho công ty X, và đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý. Đây là nghĩa vụ bắt buộc mà đại lý nào cũng phải thực hiện mà bên công ty Y không thể viện dẫn một điều gì nhằm trốn tránh nghĩa vụ. - Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định thì phải tuân thủ quy định đó. Đây là quy định mới của Luật thương mại năm 2005 so với Luật thương mại năm 1997. Nghĩa là nếu thuộc một trong các trường hợp trên thì công ty Y – bên đại lý có nghĩa vụ chỉ được giao kết hợp đồng đại lý bán hàng hóa đối với ông ty X về loại hàng hóa đó mà thôi mà không được gioa kết hợp đồng làm đại lý cho các công ty khác cùng sản xuất loại hàng hóa đó. Đây là một điều kiện bắt của pháp luật đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa. Ví dụ, tổng đại lý kinh doanh xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm tổng đại lý cho một thương nhân đầu mối theo quy định của pháp luật. Cụ thể “Đại lý chỉ được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một tổng đạ lý hoặc một thương nhân đầu mối” (khoản 1 Điều 17 Nghị định 84/209/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu). 1.2. Quyền của công ty Y với tư cách là bên đại lý Song song với việc thực hiện nghĩa vụ, bên đại lý bán hàng hóa – công ty Y cũng có những quyền nhất định theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng đại lý bán hàng hóa. Theo quy định tại Điều 174 Luật thương mại năm 2005 thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại lý có các quyền sau đây: 1. Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này; 2. Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý; 3. Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý; 4. Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối với đại lý bao tiêu; 5. Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại”. Cụ thể công ty Y có các quyền: - Công ty Y có quyền giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này. Thông thường bên đại lý – công ty Y được quyền ký kết hợp đồng đại lý với nhiều bên giao đại lý trừ trường hợp pháp luật có quy định khác và các bên không có thỏa thuận. Quy định này liên quan đến điều khoản không cạnh tranh (non – competition) mà các bên thường sử dụng trong hợp đồng đại lý. Theo đó, các bên có thể thỏa thuận “trong quá trình thực hiện hợp đồng đại lý hoặc một thời gian sau khi chấm dứt quan hệ hợp đồng đại lý, bên đại lý không được ký hợp đồng đại lý với các đối thủ cạnh tranh của bên giao đại lý” để bảo vệ lợi ích của bên giao đại lý. Đây là nội dung mới chưa được đề cập trong pháp luậ Việt Nam mình nhưng đã được pháp luật các nước trên thế giới đề cập đến. Mục đích của việc thỏa thuận này là để ngăn chặn bên đại lý không được quyền ký kết với các đối thủ cạnh tranh của bên giao đại lý sẽ sử dụng các kỹ năng kinh doanh, bí mật kinh doanh để cạnh tranh trực tiếp hoặc chuyển giao các kỹ năng, bí mật này cho đối thủ cạnh tranh của bên giao đại lý. Như vậy, nếu không thuộc trường hợp tại khoản 7 Điều 175 thì công ty Y hoàn toàn có quyền này và ngượi lại. - Công ty Y có quyền yêu cầu bên công ty X – bên giao đại lý giao hàng theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý với công ty X. - Công ty Y có quyền yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý. Cũng giống như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bên công ty Y phải bán hàng hóa theo yêu cẩu của bên giao đại lý – công ty X. Vì vậy bên công ty X phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin và các điều kiện cần thiết để bên đại lý có thể bán hàng đúng yêu cầu của bên giao đại lý. - Công ty Y có quyền hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại. Thù lao đại lý do các bên thỏa thuận, nếu các bên không có thỏa thuận thì theo quy định Điều 171 Luật thương mại năm 2005 thì thù lao đại lý được trả dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.Giá trong hợp đồng đại lý bao gồm giá mà bên giao đại lý giao cho bên đại lý (giá gioa đại lý) và giá mà bên đại lý bán cho khách hàng. Giá giao đại lý thường do bên giao đại lý ấn định trong bản báo giá cập nhật cho bên đại lý trong từng khoảng thời gian cụ thể. Giá bán hàng hóa cho khách hàng có thể được xác định theo 3 cách: do bên giao đại lý ấn định (đối với đại lý hàng hóa); do bên giao đại lý ấn định mức giá trần; do bên đại lý quyết định (đối với đại lý bao tiêu). Luật thướng mại năm 2005 và Luật thương mại năm 1997 đều quy định cho các bên tham gia quan hệ đại lý mua bán hàng hóa được quyền tự do thỏa thuận về thù lao đại lý. Do vậy, công ty Y trở thành đại lý bán hàng hóa theo hợp đồng với công ty X nên họ được hưởng thù lao và những lợi ích khác do hoạt động đại lý mang lại và không một ai hoặc bên giao đại lý có quyền này. 2. Quyền và nghĩa vụ của công ty X với tư cách là bên giao đại lý           Hợp đồng đại lý là một hợp đồng song vụ có tính chất đền bù, do đó quyền và nghĩa vụ của bên đại lý này chính là nghĩa vụ và quyền của giao đại lý. Với tư cách là bên giao đại lý – bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân ủy quyền thực hiện dịch vu cho đại lý cung ứng dịch vụ thì công ty X là thương nhân giao hàng hóa và trở thành bên giao đại lý. Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác giữa công X và công ty Y thì theo quy định của pháp luật công ty Y sẽ có những quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 172 và Điều 173 Luật thương mại năm 2005. 2.1. Quyền của công ty X với tư cách là bên giao đại lý           Theo quy định Điều 172 Luật thương mại năm 2005 Điều 172 về quyền của bên giao đại lý thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các quyền sau đây: 1. Ấn định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng; 2. Ấn định giá giao đại lý; 3. Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật; 4. Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý; 5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý”. Cụ thể công ty X có những quyền sau với tư cách là bên giao đại lý. -  Công ty X có quyền ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng. Bên giao đại lý – công ty X có quyền ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng. Trong trường hợp thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng (được ấn định theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán hàng hóa cho khách hàng) thì bên giao đại lý – công ty X sẽ ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng và bên đại lý – Công ty Y buộc phải tuân thủ mức giá đã ấn định một cách nghiêm ngặt. - Công ty X có quyền yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật. Như phân tích ở trên nhằm tránh những rủi ro đáng tiếc trong hợp đồng đại lý, bên giao đại lý có quyền yêu cầu bên đại lý thực hiện biện một hoặc nhiều biện pháp bảo đảm để có sự tin tưởng khi thực hiện giao hàng hóa của mình cho công ty Y. Trước khi gioa kết hợp đồng công ty X có quyền yêu cầu công ty Y phải thực hiện một biện pháp bảo đảm nhất định và khi công ty Y đồng ý với yêu cầu đó thì công ty X hoàn toàn có quyền yêu cầu công ty Y phải thực hiện nó đúng theo quy định của pháp luật. Việc thực hiện các biện pháp bảo đảm góp phần tiến hành đẩy nhanh quan hệ đại lý giữa hai công ty trên và tạo độ an toàn hơn đối với các bên trong quan hệ đại lý nàỳ. - Công ty X có quyền yêu cầu công ty Y thanh toán tiền theo hợp đồng đại lý. Sở dĩ như vậy là vì trong quan hệ đại lý có một điểm đặc biệt là việc chuyển giao hàng hóa từ bên giao đại lý đến bên đại lý không đồng thời kèm theo việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa. Chính vì vậy khi giao hàng cho bên đại lý thì bên giao đại lý vẫn là chủ sở hữu hàng hóa. Thực chất bên đại lý chỉ là bên bán hàng thuê cho bên giao đại lý mà thôi. Nên thường bên giao đại lý cứ giao hàng trước sau đó trong một thời hạn thỏa thuận theo hợp đồng đại lý thì bên giao lại lý mới nhận tiền. Do đó, công ty X hoàn toàn có quyền yêu cầu công ty Y – bên đại lý thanh toán tiền hàng hóa theo đúng hợp đồng đại lý. Đây là quyền gắn liền với hợp dồng đại lý và nếu không có hợ đồng đại lý thì công ty X không thể có quyền này với công ty Y. - Công ty X có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý. Đây là một trong những quyền quan trọng của bên giao đại lý đối với bên đại lý. Chính vì quyền này pháp luật trao cho bên giao đại lý nên nhiều thương nhân đã lựa chọn hình thức trung gian đại lý thương mại để mang hàng hóa của mình đến với người tiêu dùng. Bởi lẽ không trực tiếp bán hàng nhưng lại là bên có quyền kiểm tra, giám sát đối với hoạt động đại lý trên thức tế. Đó là một ưu thế của bên giao đại lý. 2.2 Nghĩa vụ của công ty X với tư cách là bên giao đại lý Luật thương mại quy định về nghĩa vụ của bên giao đại lý tại Điều 173: “ Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các nghĩa vụ sau đây: 1. Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng đại lý; 2. Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ; 3. Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý; 4. Hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý;5. Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra”. Cụ thể công ty X là bên giao đại lý có nghĩa vụ: - Công ty X có nghĩa vụ hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng đại lý. Khi giao kết hợp đồng đại lý nghĩa là khi đó hai bên trong quan hệ đại lý phải thực hiện những quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. Theo đó, khi làm đại lý cho công ty X thì công ty X cũng phải có nghĩa vụ hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện để công ty Y thực hiện tốt hợp đồng đại lý nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên. Rất cần thiết có quy định này bởi nó đảm bảo cho bên giao đại lý phải có trách nhiệm đối với bên đại lý. - Công ty X có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa. Sở dĩ như vậy vì hàng hóa thuộc sở hữu của công ty X – bên giao hàng nên tất cả vấn đề liên quan đến hàng hóa mà nhất là chất lượng hàng hóa thì Công ty X phải là bên có trác nhiệm đầu tiên và trước hết. Tính chất chủ sở hữu được áp dụng triệt để trong tình huống này.  - Công ty X có nghĩa vụ trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý. Thời hạn, cách thức xác định và phương thức thanh toán thù lao do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không thỏa thuận khác thì thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá (Điều 171 Luật thương mại). Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá bán cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ % trên giá bán hàng hóa. Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá bán hàng hóa cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại lý cho bên đại lý thì bên đại lý được hưởng chênh lệch giá. Mức chênh lệch giá là mức chênh lệch giữa giá bán cho khách hàng so với giá bên giao đại lý ấn định cho bên đại lý. Mức thù lao đại lý do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đại lý, nếu các bên không có thỏa thuận về mức thù lao đại lý thì theo quy định tại khoản 4 Điều 171 Luật thương mại mức thù lao được tính như sau: theo mức thù lao thực tế mà các được trả trước đó; nếu không xác định được mức thù lao thực tế mà các bên đã trả trước đó thì mức thù lao đại lý là mức trung bình được áp dụng chung cho cùng loại hàng hóa mà bên giao đại lý trả cho các đại lý khác; nếu không áp dụng được cả hai cách trên thì mức thù lao đại lý là mức thông thường được áp dụng dùng cho cùng loại hàng hóa trên thì trường.Việc thanh toán thù lao được tiến hành theo từng đợt sau khi bên đại lý hoàn thành việc bán một khối lượng hàng hóa xác định. - Công ty X có nghĩa vụ hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý. Nếu trong hợp đồng đại lý có thỏa thuận về việc bên đại lý thực hiện một số biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật như: cầm cố, thế chấp, ký quỹ… thì bên giao đại lý được nhận ký quỹ tài sản, hoặc giấy tờ về tài sản thế chấp của bên đại lý. Khi kết thúc hợp đồng, bên giao đại lý phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bên đại lý tiền ký quỹ, tài sản hoặc giấy tờ về tài sản thế chấp đó mà không được chậm chễ. Luật thương mại không quy định cụ thể về nghịa vụ của bên giao đại lý phải giao tiền, hàng cho bên đại lý. Tuy nhiên, tương xứng với quyền của bên đại lý là nghĩa vụ của bên kia, bên giao đại lý phải có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên đại lý nếu là đại lý bán hàng. Bên giao đại lý có quyền yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền. Bên đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa giao cho bên đại lý. Do hợp đồng đại lý là một hợp đồng dịch vụ cho nên nó khác với hợp đồng vay tài sản trong dân sự, hợp đồng  mua bán hàng hóa ở chỗ mặc dù bên giao đại lý giao hàng hóa cho bên đại lý để bán hàng hóa nhưng hàng hóa đó vẫn thuộc quyền của bên giao đại lý. Như vậy bên đại lý không được sử dụng số hàng hóa mà bên giao đại lý đã trao cho vào bất kỳ một mục đich nào khác ngoài mục đích mà các bên đã thoat thận trong hợp đồng. - Công ty X có nghĩa vụ Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra. Ví dụ công ty X và công ty Y giao kết hợp đồng đại lý bán hàng hóa thuộc diện kinh doanh có điều kiện và bên đại lý – công ty Y bị xử lý vi phạm hàh chính do không tuân thủ các điều kiện thì bên giao đại lý cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Quy định này trong một số trường hợp cũng tạo ra không ít khó khăn cho bên giao đại lý khi dự liệu các trường hợp có thể sảy ra trong thực tiễn liên quan đến hành vi vi phạm của bên đại lý. Có nghĩa là rất khó xác định các trường hợp mà bên giao đại lý có phải liên đới chịu trác nhiệm hay không. Chính điều này đã làm cho các đại lý e ngại khi giao kết hợp đồng đại lý cũng như rất dễ đẫn đến tranh chấp của hai bên trong việc có hay không thực hiện trách nhiệm liên đới. Đây là điều mà pháp luật cần quan ta giúp ổn định quan hệ đại lý thương mại. * TÓM LẠI: Như đã phân tích ở trên khi tham gia vào quan hệ đại lý thương mại công ty X và công ty Y đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Những quy định đó của pháp luật về quyền và nghĩa vụ cảu hai bên nhìn chung khá đầy đủ và cụ thể. Tuy nhiên, Luật thương mại năm 2005 đã bỏ sót khi không quy định về một quyền rất quan trọng của bên đại lý là quyền được bảo vệ quyền sở hữu dnah sách khách hàng trong hệ thống phân phối. Bởi khi bên đại lý mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý thì họ phải thiết lập một mạng lưới khách hàng và họ cần được pháp luật bảo vệ đối với quyền sở hữu dnah sách khách hàng của mình cũng như những chi phí bỏ ra để thiết lập mạng lưới khách hàng đó không chỉ trong thời giam đang làm đại lý cho bên giao đại lý mà cả trong một khoảng thời gian nhất định sau khi hợp đồng đại lý hết hiệu lực. Chúng ta đều biết trong hợp đồng kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận việc tìm kiếm khách hàng có thể nói là một trong những việc khó khăn để thương nhân tìm được chỗ đứng trên thị trường. Để tạo được mạng lưới phân phối, thương nhân thường mấy rất nhiều thời gian và chi phí. Thông qua đại lý thương mại, các thương nhân giao đại lý đã tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí ra nhập thị trường mà vẫn đưa được các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình đến với người tiêu dùng và thu lợi nhuận. Do vậy, quyền sở hữu đối với danh sách khách hàng là quyền mà các đại lý thương mại cần được bảo vệ. Trong thời hạn quan hệ hợp đồng đại lý thương mại có hiệu lực, các đại lý được nhận thù lao từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Bên giao đại lý khi biết được danh sách khách hàng của bên đại lý có thể trực tiếp bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ cho khách hàng của bên đại lý để thu lợi nhuận mà không phải trả thù lao đại lý.  Năm 2005 khi cocacola khởi kiện đòi nợ cac đại lý độc quyền của mình, các đại lý cũng đưa ra vấn đề yêu cầu pháp luật bào vệ về cocacola nắm danh sách địa chỉ khách hàng trong hệ thống phân phối của các đại lý độc quyền và trực tiếp bán hàng hóa cho khách hàng trong hệ thống đó mà không được sự chấp nhận của đại lý độcc quyền do trong hợp đồng giữa cocacola và với các đại lý độc quyền không có điều khoản nào xác định hệ thống khách hàng mà các đại lý độc quyền xác định được là tài sản riêng của họ nên coca được quyền làm điều đó và các đại lý không thể bắt bẻ được. Thiết nghĩ, Luật thương mại cần bổ sung điều này thành một quyền của đại lý mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Có như vậy quyền lợi của bên đại lý mới được bảo đảm hơn trên thực tế. II. BÌNH LUẬN VỀ VỤ VIỆC SAU (Công ty X đã kí hợp đồng giao cho công ty Y làm đại lý bán hàng tại tỉnh H. Khi công ty Y nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng (mặc dù trong hợp đồng đã kí thời hạn 5 năm) của công ty X, công ty Y đã yêu cầu công ty X phải trả một khoản tiền tương đương với thời hạn 4 năm làm đại lý cho công ty X nhưng đã bị từ chối).           Khi hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa được giao kết thì sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc các bên với nhau và các bên phải thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, trên thực tế thường gặp một hoặc các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng (vi phạm hợp đồng). Các hành vi vi phạm hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa thường gặp trong thực tế là: vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng, tiền thù lao cho bên đại lý; vi phạm các chính sách đại lý do bên giao đại lý công bố; vi phạm tiến độ giao hành hóa đại lý… Các hành vi này có thể dẫn đến những thiệt hại cho bên bị vi phạm. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm pháp luật quy định nhiều hình thức trách nhiệm hợp đồng (chế tài thương mại) áp dụng cho bên có hành vi vi phạm như buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng… Bên cạnh đó trong quan hệ đại lý cũng có trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của một trong hai bên làm chấm dứt hợp đồng đại lý. Mà tình huống trên chính là vấn đề chúng ta cần bình luận cụ thể về hành vi của hai bên.           Trước hết để hiểu rõ hơn về vụ việc này, chúng ta cần tóm tắt nội dung cụ thể như sau: Công ty X và Công ty Y ký với nhau một hợp đồng đại lý. Theo đó, Công ty Y sẽ làm đại lý bán hàng hóa cho công ty X tại tỉnh H trong thời hạn 5 năm. Nhưng khi công ty Y làm đại lý cho công ty X mới được 4 năm thì công ty X thông báo cho công ty Y chấm  dứt hợp đồng đại lý. Công ty Y đã yêu cầu công ty X phải trả một khoản tiền tương đương với thời hạn 4 năm làm đại lý cho công ty X nhưng đã bị từ chối. Câu hỏi đặt ra là hãy bình luận về vụ việc trên.           Như chúng ta đã biết, hợp đồng đại lý thương mại cũng như hợp đồng nói chung có thể chấm dứt trong một số trường hợp mà pháp luật quy định trong đó có trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng. Theo Điều 177 Luật thương mại “1.Trừ trường hợp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2727840I L TH431416NG M7840I.doc
Tài liệu liên quan