MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
1. Dân chủ và dân chủ hoá xã hội 2
1.1. Dân chủ 2
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ 3
2. Dân chủ hoá xã hội 6
2.1. Cách tiếp cận 6
2.2. Dân chủ và dân chủ hoá ở nước ta 7
3. Một số giải pháp cơ bản thực hiện dân chủ hoá xã hội ở nước ta 10
3.1. Nhất quán quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền 10
3.2. Triệt để thực hành dân chủ trong Đảng theo 12 quy định tư cách của Đảng cầm quyền của Hồ Chí Minh và nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thực sự 10
3.3. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy Nhà nước bao gồm 11
Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 21
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Dân chủ - Dân chủ hoá xã hội góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân - do dân - vì dân ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bãi miễn Chính phủ bất cứ lúc nào. "Nếu Chính phủ có hại cho dân chúng thì dân chúng đập đổ Chính phủ ấy đi".
Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ thực sự, bởi vì trải qua bôn ba khắp thế giới Hồ Chí Minh đã thấy rõ thứ dân chủ giả hiệu, thức khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" mà các nhà nước tư sản làm cái bánh vẽ dùng để mỵ dân. Ngay sau khi giành được độc lập người đã cảnh báo bệnh quan liêu xa dân. Người nói: "Đảng không phải là nơi làm quan phát tài". Hay: "cán bộ thì cậy thế mình trong ban này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quyên rằng dân bầu ra mình để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân; đè đầu cưỡi cổ dân".
Quan niệm về dân chủ ở Hồ Chí Minh là dân chủ triệt để, dân chủ thực sự dựa trên nhận thức phải thân dân, gần dân, yêu dân, kính trọng dân, học dân thì mới có thể tạo nên sức mạnh thực sự của cách mạng, Người viết: "có phát huy dân chủ cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên".
Trong việc lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải thực hành dân chủ trong nội bộ Đảng. Hồ Chí Minh đề ra 12 tư cách của một Đảng cầm quyền để thực hành dân chủ trong đảng và giữ mối quan hệ với nhà nước và nhân dân.
1. Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài, Đảng phải phấn đấu vì lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân.
2. Cán bộ Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và biết thực hành cách mạng.
3. Khi Đảng ra các nghị quyết của đảng phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của cả nước và của địa phương.
4. Đảng phải chịu sự kiểm soát của quần chúng.
5. Hoạt động của đảng phải luôn luôn đứng về phía quần chúng.
6. Đảng phải gắn bó chặt chẽ với quần chúng, học hỏi dân chúng, coi đó là một nguyên tắc.
7. Trong hoạt động đảng phải khôn khéo sử dụng những hình thức thích hợp.
8. Đảng không được che giấu khuyết điểm của mình, không sợ phê bình, phải sửa chữa khuyết điểm.
9. Đảng phải biết lựa chọn, sử dụng cán bộ nhất là những nhóm trung kiên, cán bộ lãnh đạo.
10. Đảng phải đấu tranh với những phần tử cơ hội, không cho bọn cơ hội chui vào hàng ngũ của đảng.
11. Đảng phải giữ nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới.
12. Đảng phải luôn tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện các nghị quyết để kịp thời bổ sung, điều chỉnh thích hợp.
Quan điểm về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền được Đảng vận dụng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong quá trình lịch sử cách mạng nước ta.
Từ quan niệm về dân chủ, Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng nhà nước pháp quyền. Theo Người nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, luật pháp phải thể hiện bản chất dân chủ và quyền tự do dân chủ của nhân dân phải thực hiện trong khuôn khổ pháp luật: "luật pháp của chúng ta hiện nay bảo vệ hàng triệu người lao động... pháp luật của chúng ta phải thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình nhưng phải tôn trọng tự do của người khác, người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp".
2. Dân chủ hoá xã hội
2.1. Cách tiếp cận
Dân chủ hoá xã hội chính là quá trình làm cho dân chủ trở thành xã hội, phổ biến trong sinh hoạt xã hội, là quá trình làm biến đổi nhận thức và hành vi của toàn xã hội về dân chủ như là hệ giá trị cao, văn minh của con người, cho con người và vì con người là quyền tự quyết thiêng liêng của con người.
Để thực hiện dân chủ và dân chủ hoá xã hội, nhà nước cần phải:
- Xây dựng và tuyên truyền, giáo dục hình thành chuẩn mực văn hoá chính trị dân chủ trong bộ máy nhà nước và trong toàn xã hội.
- Xây dựng thể chế Nhà nước pháp quyền và hình thành hệ thống chính trị dân chủ - pháp quyền. Trong đó nhân dân là chủ thể quyền lực, là người quyết định hình thức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Dân thực hiện sự uỷ quyền có điều kiện và có thời hạn đối với nhà nước và thực hiện quyền bãi miễn đại biểu đối với đại biểu dân cử, quan chức chính quyền và Chính phủ khi có sự lạm quyền, tha hoá quyền lực.
Nhân dân là chủ thể được tham gia vào công việc của Nhà nước, mọi chính sách của Nhà nước đều phải hỏi dân, dựa vào dân để thực hiện và để kiểm tra giám sát.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh tế, phát huy năng lực sáng tạo của nhân dân.
Xây dựng thể chế chính trị, hệ thống chính trị phù hợp với tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền và xây dựng xã hội công dân.
- Bảo đảm nguyên tắc dân chủ trong việc quyết định mọi vấn đề của Nhà nước trong đó, nguyên tắc tập trung dân chủ cũng phải dựa trên cơ chế bảo đảm thực sự dân chủ, phải dựa vào dân.
- Xây dựng quan hệ, tập quán dân chủ trong đời sống chính trị - xã hội. Coi dân chủ như là hơi thở, là phương thức tồn tại phát triển của các quan hệ xã hội.
2.2. Dân chủ và dân chủ hoá ở nước ta
ở nước ta, trải qua hàng ngàn năm dưới ách đô hộ của thực dân phong kiến, đế quốc, dân chủ là khát vọng ngàn đời của cả dân tộc Việt Nam.
Chúng ta may mắn có thiên tài Hồ Chí Minh, mà tư tưởng và sự nghiệp của người gắn liền với cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân. Tư tưởng của Người về dân chủ ngay từ đầu là kim chỉ nam cho quá trình hình thành và xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Năm 1945, sau cách mạng tháng 8, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chế độ chính trị nước ta bước sang giai đoạn mới là Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.
Hiến pháp năm 1946 khẳng định: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Điều 1). Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định các quyền tự do, dân chủ của công dân về kinh tế, văn hoá, chính trị, quyền dân chủ tham gia xây dựng bộ máy Nhà nước; quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực thi các quyền dân chủ với nhân dân; quy định hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước của nhân dân là Quốc hội và HĐND các cấp, thay mặt nhân dân quyết định và giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Về các giá trị dân chủ, trong điều kiện đất nước về xâm lăng, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta coi giành độc lập dân tộc là giá trị dân chủ hàng đầu thiêng liêng nhất. Độc lập dân tộc là trên hết và trước hết gắn liền với tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Có độc lập dân tộc mới có tất cả. Độc lập dân tộc là mục tiêu hành động của toàn Đảng và toàn dân ta, trở thành động lực để cổ vũ, vận động, tổ chức toàn dân, huy động sức lực, trí tuệ, của cải, máu xương của toàn dân để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện đặc biệt của dân tộc, Đảng đã thực hiện nguyên tắc "lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện" nhằm tập trung cao độ sự lãnh đạo chính trị vào một đầu mối chỉ huy vào "Bộ chỉ huy thống soái - bộ chính trị" để tận dụng tối đa mọi nguồn lực của đất nước cho mục tiêu cao nhất là đánh bại kẻ thù xâm lược. Lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng đã đặt lên vai đảng ta sứ mệnh lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối sự nghiệp cách mạng bằng các quyết sách, quyết định cụ thể mang tính chỉ huy và tổ chức trực tiếp đối với Nhà nước và xã hội, điều này vừa nói lên tính phù hợp hoàn cảnh lịch sử của đất nước vừa tạo tiền đề khách quan cho sự phát huy dân chủ trong Đảng, nhưng khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng xã hội công dân, xã hội dân sự thì việc tiếp tục duy trì phương thức lãnh đạo đó sẽ ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước pháp quyền và sự phát triển của thực tiễn, nhất là sau khi giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc từ 1975 đến năm 1986. Việc duy trì phương thức lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp trong điều kiện một đất nước lạc hậu, vừa thoát ra chiến tranh xâm lược lại bị bao vây, cấm vận toàn diện của các thế lực thù địch dẫn đến sự cự tuyệt nền kinh tế nhiều thành phần, áp đặt quan hệ sản xuất XHCN ngay trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, đã làm thủ tiêu dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước và xã hội, làm cho đất nước bước vào thời kỳ khủng hoảng toàn diện tưởng như thành quả cách mạng giải phóng dân tộc không thể nào đứng vững được.
Với truyền thống cách mạng và bản chất của một Đảng được tôi luyện trong lịch sử đấu tranh, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan nhận thức sâu sắc bài học lấy dân làm gốc. Đảng ta đã tự phê bình, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm và đề ra đường lối đổi mới từ Đại hội VI, đây có thể được coi là bước đột phá cực kỳ quan trọng trong việc phát huy dân chủ trong Đảng, đặt nền móng cho việc hình thành quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN cùng với cơ chế thị trường định hướng XHCN và xây dựng xã hội công dân để đưa nước ta tiếp cận và hoà nhập vào đời sống chính trị thế giới.
Thành tựu 20 năm đổi mới đã khẳng định chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Thế và lực của cách mạng nước ta được củng cố và tăng cường trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng đất nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mục đích và bản chất nhà nước là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một nhà nước thống nhất về lãnh thổ, có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng của 54 đất dân tộc anh em, Đảng đóng vai trò là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc, rõ ràng dân chủ trong Đảng và dân chủ hoá xã hội hiện nay mang những nội dung hoàn toàn mới và toàn diện hơn, đòi hỏi Đảng ta phải nghiên cứu tìm tòi, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; về Đảng cầm quyền; về dân chủ hoá, về Nhà nước của dân, do dân, vì dân để hình thành văn hoá chính trị về dân chủ trong Đảng và trong xã hội nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mang đặc thù Việt Nam nhưng phù hợp với tiến bộ phát triển của nhân loại.
3. Một số giải pháp cơ bản thực hiện dân chủ hoá xã hội ở nước ta
3.1. Nhất quán quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền
- Pháp luật giữ địa vị tối thượng trong quản lý nhà nước và xã hội.
- Mọi tổ chức, cá nhân bình đẳng trước pháp luật.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối, quan điểm, nghị quyết, nhưng đồng thời phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; bình đẳng trong quan hệ pháp luật, Đảng không làm thay việc Nhà nước.
- Đề cao tinh thần pháp luật trong hoạt động của xã hội công dân, xã hội dân sự, mọi công dân có quyền làm mọi việc mà pháp luật không cấm.
3.2. Triệt để thực hành dân chủ trong Đảng theo 12 quy định tư cách của Đảng cầm quyền của Hồ Chí Minh và nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thực sự
- Dân chủ trong quá trình hình thành đường lối, chính sách, nghị quyết chỉ thị của Đảng.
- Dân chủ trong việc ban hành, công bố, công khai đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của đảng.
- Dân chủ, bình đẳng trong thực hiện nguyên tắc tổ chức và kỷ luật Đảng.
- Dân chủ trong phát hiện nhân tố, phát hiện người hiền tài cũng như phát hiện, tố giác, đấu tranh chống quan liêu tham nhũng trong đảng và ngoài xã hội.
- Dân chủ trong phê bình, tự phê bình và có giải pháp bảo vệ người phê bình, đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ Đảng.
Công khai tổ chức bộ máy, cán bộ, ngân sách hoạt động của Đảng và chế độ chính sách đãi ngộ cho cán bộ của Đảng để nhân dân giám sát.
- Xây dựng và ban hành các VBQPPL về sự lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, xã hội và hệ thống chính trị.
- Trung ương Đảng phải ban hành quy chế về hoạt động của BCHTW, BCT, BBT, BTV của cấp uỷ Đảng, các đảng đoàn, chức trách cá nhân của những người giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng quy định rõ nội dung lãnh đạo, phạm vi lãnh đạo, quy trình làm việc hết sức cụ thể, rõ ràng, minh bạch trong toàn Đảng. Nếu không làm được điều này thì cụm từ trực tiếp - toàn diện - tuyệt đối về sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục bị vận dụng thực hiện tuỳ tiện, làm vô hiệu hoá bộ máy Nhà nước.
Trên cơ sở xác định lại nội dung, và phạm vi lãnh đạo của đảng, cần nghiên cứu tinh giản bộ máy chuyên trách của Đảng và các tổ chức chính trị xã hội một cách hợp lý. Chuyển các đơn vị sự nghiệp của các đoàn thể sang thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức, biên chế và tài chính theo quy định của pháp luật và đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3.3. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy Nhà nước bao gồm
1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội, HĐND các cấp)
Cần xác định rõ mối quan hệ về nguyên tắc lãnh đạo của Đảng với chức năng quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng thông qua đường lối, chiến lược và nghị quyết của Đảng và tổ chức thực hiện thông qua hệ thống tổ chức của đảng, thông qua cán bộ, đảng viên của đảng tham gia trong các cơ quan nhà nước như Đảng đoàn Quốc hội và HĐND, các đảng viên trong Quốc hội và HĐND, nhưng phải bảo đảm nguyên tắc hoàn toàn tôn trọng tổ chức và các quyết định, nghị quyết của Quốc hội, HĐND các cấp. Các nghị quyết của Đảng phải mang tính định hướng nhằm phát huy dân chủ thực sự, dân chủ cao nhất trong sinh hoạt của đại biểu Quốc hội và HĐND để quyết định, thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Để thực hiện được nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, Đảng cần lãnh đạo việc tăng cường cán bộ chuyên trách của Quốc hội và HĐND các cấp, bảo đảm đủ chức danh và hoạt động độc lập theo quy định của pháp luật. Đảng giới thiệu những cán bộ đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực quán triệt, cụ thể hoá nghị quyết của đảng vào giữ một số chức vụ do Quốc hội và HĐND bầu để hiện thực hoá quan điểm đường lối của đảng trong các nghị quyết và quyết định của Quốc hội và HĐND. Đảng viên của Đảng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội và HĐND của mình phải nghiên cứu vận dụng nghị quyết của Đảng cho phù hợp. Về nguyên tắc không "để lộ ý đồ" lãnh đạo của đảng trong hoạt động của Quốc hội và HĐND vì đó là các diễn đàn thể hiện rộng rãi nhất đại diện của các tầng lớp nhân dân không hoàn toàn đồng nhất về tư tưởng.
Mặt khác, trong khi quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương, các đảng viên có quyền thực hiện độc lập quan điểm đại biểu của mình, có quyền biểu quyết các chỉ tiêu, giải pháp khác so với định hướng của đảng như phù hợp với đường lối, điều kiện thực tế và nguồn lực của đất nước và địa phương mà không bị tổ chức đảng đánh giá là không chấp hành nghị quyết đảng. Đó chính là tính biện chứng trong vai trò lãnh đạo của đảng đối với cơ quan quyền lực nhà nước vì nhận thức là một quá trình, một hệ thống mở.
Khắc phục tình trạng khá phổ biến là coi HĐND là cơ quan "làm thêm"; cơ quan "hợp thức hoá" ý chí của Đảng và từ đó Đảng không quan tâm đúng mức việc kiện toàn bộ máy, không đầu tư đúng mức công tác cán bộ và không thực sự quan tâm lãnh đạo hoạt động của cơ quan quyền lực nhất là HĐND các cấp. Mọi việc quan trọng của địa phương từ chiến lược đến bộ phận, từ vĩ mô đến vi mô, từ phân bổ ngân sách đến đầu tư xây dựng, từ vay đến trả, chi tiêu mua sắm... đã có đảng chỉ đạo thực hiện. Làm cho HĐND ở nhiều nơi tồn tại như "cái bóng" của đảng, hữu danh vô thực dẫn đến hiệu lực và hiệu quả hoạt động thấp không như mong muốn mà các tầng lớp nhân dân trao gửi. Làm đại biểu của nhân dân trong hoàn cảnh như vậy khó mà hoàn thành sứ mạng đại biểu cho ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Vậy trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân có thể khẳng định rằng đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan quyền lực nhà nước là một trong những khâu đột phá của hệ thống chính trị nước ta. Đảng phải thực sự tôn trọng và lãnh đạo Quốc hội, HĐND các cấp thực hiện tốt chức năng quyết định và giám sát mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, bảo đảm quyền lực của nhân dân, phát huy thực sự và cao độ dân chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát đại biểu dân cử và giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.
2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành của Quốc hội và HĐND các cấp. ở nước ta, Chính phủ do Quốc hội bầu ra, UBND do HĐND bầu ra để quản lý đất nước, thực thi pháp luật. Sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước về mặt thể chế là lãnh đạo cụ thể hoá đường lối của đảng thành pháp luật và các VBQPPL làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện của cơ quan hành chính nhà nước. Nhưng trong thực tế đất nước ta còn tồn tại một thực trạng là đều là đảng viên của đảng, đều là đại biểu Quốc hội hoặc là HĐND nhưng được đảng phân công vào các vị trí chủ chốt trong Chính phủ và UBND thì rất phấn khởi và ngược lại nếu được phân công làm chủ chốt ở HĐND thì cho đó là có vấn đề, thậm chí ở một tỉnh đề bạt một phó chủ tịch đã tại vị 2 nhiệm kỳ lên làm phó chủ tịch HĐND thì đồng chí làm đơn xin về làm giám đốc Sở Nội vụ. Vì sao vậy, câu trả lời không chỉ ở chỗ làm hành pháp là trực tiếp tác chiến trên mặt trận, có quan lương đạn dược, có quyền bài binh bố trận và tiêu tổn binh lực vật lực nên có sức hấp dẫn, mà xét về góc độ lãnh đạo của đảng đang đặt ra những vấn đề nghiêm túc như sau:
Vì cơ cấu nhân sự tham gia vào cơ quan lãnh đạo của Đảng đối với UBND là cơ quan cấu cứng trong khi cơ cấu của HĐND là cơ cấu cứng trong khi cơ cấu của HĐND là cơ cấu mềm, hệ qua là trong BTV cấp uỷ có nhiều đại diện là lãnh đạo chủ chốt của UBND. Mặt khác theo tư duy lãnh đạo truyền thống mọi việc của địa phương do đảng quyết định, do vậy còn tình trạng khá phổ biến là sau khi có nghị quyết của cấp uỷ hoặc BTV, thì UBND ban hành quyết định, chỉ thị tổ chức thực hiện luôn mà không cần phải thông qua HĐND. Đó là một cách đi tắt bỏ qua quyền lực của nhân dân rất ngoạn mục. Qua khảo sát ở một số tỉnh ở khu vực miền trung, cho thấy trong chức năng quyết định quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm của HĐND, HĐND chỉ mới thực hiện dưới 50% các nhiệm vụ chủ yếu, có nơi chỉ mới 20,3%. Còn lại UBND tự quyết định. Có nơi từ đầu nhiệm kỳ HĐND đến nay chưa có một công trình trọng điểm nào của địa phương mà UBND đưa ra HĐND quyết định.
Trong thực hiện chức năng giám sát, các kiến nghị của HĐND thường không được các cơ quan giải quyết, nếu đưa ra kỳ họp thì UBND trả lời là chúng tôi đang xin ý kiến của thường vụ và như vậy luật tổ chức HĐND và UBND không có ý nghĩa thực tiễn gì.
Vậy sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước phải mang tính gián tiếp, nghĩa là nghị quyết của đảng nhất định phải được cụ thể hoá thành thể chế, thành quy phạm pháp luật thì cơ quan hành chính nhà nước mới được thực hiện (trừ các loại văn bản cá biệt của người đứng đầu hoặc các văn bản không phải là VBQPPL). Sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu là lãnh đạo các tổ chức Đảng, đảng viên thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước, của địa phương đã được thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ, Nghị quyết của HĐND các cấp bằng các nghị quyết, chỉ thị của đảng để quán triệt và tổ chức thực hiện trong tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo kiểm tra, giám sát cán bộ đảng viên chấp hành chính sách pháp luật nhà nước chứ không bao biện, làm thay, can thiệp vào công việc của nhà nước, vô hiệu hoá quyền lực của nhân dân. Đảng không tạo kẽ hở, điều kiện cho cơ quan hành chính ban hành các VBQPPL trái với quy định của pháp luật.
- Trong vai trò lãnh đạo, đảng phải bảo đảm trên thực tế đảng viên và cán bộ do tổ chức đảng quản lý nếu vi phạm pháp luật phải bị xử lý theo pháp luật chứ không chờ ý kiến của Đảng đồng thời đảng phải xử lý kỷ luật nặng hơn đảng viên thường, không bao che, nương nhẹ kỷ luật đảng đối với đảng viên vi phạm pháp luật.
3. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp
Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng theo nguyên tắc bảo đảm trên thực tế là không can thiệp vào quá trình hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc điều tra, tố tụng, xét xử, thi hành án bảo đảm chỉ tuân thủ pháp luật. Bởi vì đường lối nghị quyết của đảng thì phải công khai đề ra như thế nhưng trong tổ chức thực hiện nếu dính đến cán bộ do đảng quản lý thì tổ chức đảng lại can thiệp vào quá trình xử lý pháp luật. Đó là tình trạng mong mà không muốn trong lãnh đạo công tác tư pháp.
- Đảng cần quan tâm lãnh đạo cải cách hệ thống pháp luật, cải cách bộ máy tư pháp làm cho hoạt động tư pháp nhanh nhạy có hiệu quả đáp ứng yêu cầu thực tiễn, khắc phục tình trạng chồng chéo trong phối hợp, cản trở khó khăn trong hoạt động tố tụng hoặc liên kết bao che, cố ý làm trái, tiêu cực trong điều tra, xét xử, thi hành án.
- Nâng cao năng lực và kỷ cương thực thi nhiệm vụ cho đội ngũ tư pháp. Tổ chức toà án hiến pháp để bảo vệ hiến pháp.
4. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội
Các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất to lớn trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Mặt trận Việt Minh đã từng có vai trò như một kiểu nhà nước, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy toàn dân làm nên cách mạng tháng 8. Các đoàn thể chính trị - xã hội là chỗ dựa chính trị vững chắc của Đảng trong các thời kỳ cách mạng.
Tuy nhiên, cho đến nay, bước vào thời kỳ xây dựng đất nước theo tư tưởng nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có nhận thức mới về tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng làm cho các tổ chức chính trị - xã hội đang tồn tại như là bộ máy hành chính - chính trị - xã hội, chuyển sang hoạt động xã hội - chính trị.
Đa dạng hoá hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm về tài chính, hoạt động xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các nhóm đối tượng xã hội. Không đề cao quá mức vai trò tập hợp giáo dục, quản lý mà đề cao vai trò tư vấn hướng dẫn, bảo vệ lợi ích của các thành viên. Cho phép các tổ chức xã hội hoạt động kinh tế theo pháp luật để tạo nguồn lực hoạt động, không trông chờ, ỉ lại và mặc cả với nhà nước. Nhà nước chỉ hỗ trợ cơ sở vật chất và đặt hàng một số chương trình mục tiêu cụ thể, không bao cấp ngân sách tràn lan.
Cần nghiên cứu đổi mới tính hệ thống nhiều cấp của các tổ chức xã hội chính trị, chủ yếu nên hình thành 2 cấp Trung ương và cơ sở theo xu hướng hợp tác quốc tế, hình thành các hiệp hội để bảo vệ lợi ích của các nhóm xã hội. Tinh giảm bộ máy cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; đa dạng hoá hoạt động cơ sở; chuyển các tổ chức chính trị - xã hội sang hoạt động theo luật về hội.
Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật chứ không quá đề cao "vai trò ảo - tướng không quân" của hệ thống hành chính quan liêu của các tổ chức chính trị - xã hội. Tình hình của Thái Bình năm 1997 và ở Tây Nguyên mấy năm gần đây đủ sức thuyết phục nhận định trên. Mặt khác trong nhà nước pháp quyền cần nghiên cứu hình thành cơ quan nhà nước về thanh niên và phụ nữ, rất gọn nhẹ để nghiên cứu chính sách, quản lý nhà nước về thanh niên và bình đẳng giới.
Chuyển toàn bộ các đơn vị sự nghiệp thuộc các đoàn thể Trung ương và địa phương sang các đơn vị sự nghiệp độc lập, hoạt động theo pháp luật, xoá bỏ cơ chế xin cho, can thiệp sâu của các cơ quan chủ quản vào đơn vị sự nghiệp.
Đổi mới cơ chế phân cấp ngân sách đầu tư phát triển theo 4 cấp ngân sách, không chia ngân sách nhà nước cho các Bộ, ngành và các Đoàn thể Trung ương, đây là kẽ hở cho sự móc nối, tiêu cực tham nhũng vì không có cơ quan giám sát. Các đoàn thể vì chạy theo dự án mà bỏ chức năng hoạt động xã hội.
5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính
- Đã đến lúc pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện phù hợp với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong đó, về mặt thể chế phải quan tâm thiết kế cơ chế phân quyền giữa 3 bộ phận cấu thành quyền lực nhà nước phù hợp với đường lối xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Xây dựng và ban hành các Bộ luật, các văn bản quy phạm pháp luật về công khai tài sản, tài chính của các cấp ngân sách, của các đối tượng được hưởng lợi từ ngân sách, của đội ngũ cán bộ công chức.
- Xây dựng và ban hành luật giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp và thiết kế kỹ thuật pháp lý thi hành Luật giám sát của nhân dân một cách có hiệu quả.
- Xây dựng và ban hành hệ thống VBQPPL thực hiện quan điểm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan tư pháp và các đoàn thể chính trị - xã hội như trình bày ở trên.
- Nghiên cứu cải cách thể chế nhà nước trong điều kiện Đảng cầm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan.doc