Tiểu luận Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất Việt Nam giai đoạn 1995 đến nay

 Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định LSTG và LSCV từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Đặc biệt, các NHTM cổ phần dường như không thể giảm LSTG để giảm LSCV vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, khi không còn trần về lãi suất hay giới hạn lãi suất cơ bản + biên độ, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động rồi đầu tư rủi ro cao (do tác động của lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại) trước sức ép cạnh tranh. Trong khi đó, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng rằng lãi suất giờ đây sẽ phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất phản ánh các chí phí cho vay và rủi ro.

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2801 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất Việt Nam giai đoạn 1995 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Chính sách tiền tệ của chính phủ Khi lãi suất tăng làm giảm nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, ngân hàng Trung ương sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu cho các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại được giảm lãi suất tái chiết khấu sẽ hạ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp, làm cho toàn bộ hệ thống lãi suất, đối với các thành phần kinh tế đều giảm, các khoản cho vay tiêu dùng tăng lên. Khi lãi suất giảm Ngân hàng Trung ương sẽ sử dụng các chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại.Tăng lãi suất chiết khấu để làm giảm các khoản cho vay. Như vậy thông qua các chính sách tiền tệ của chính phủ mà lãi suất trên thị trường đã có những thay đổi nhằm đảm bảo mục tiêu ổn định, phát triển kinh tế -xã hội. Rủi ro và kỳ hạn của tín dụng Thời hạn cho vay dài, độ rủi ro lớn thì lãi suất cho vay sẽ cao và ngược lại.Vì thế lãi suất cho vay trong ngắn hạn sẽ nhỏ hơn lãi suất cho vay trong dài hạn,lãi suất trái phiếu chính phủ thường thấp hơn lãi suất trái phiếu của các công ty kinh doanh Các nhân tố ảnh hưởng khác Sự ổn định về kinh tế -chính trị, tình hình cân đối của ngân sách nhà nước, mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian, chính sách tài khóa của nhà nước, tỷ giá hối đoái, tình hình tài chính quốc tế,....cũng ảnh hưởng rất lớn đến lãi suất. 5. Mối quan hệ giữa lãi suất và các biến cố kinh tế vĩ mô khác Lãi suất và đầu tư Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao. Đặc biệt trong thời kì nền kinh tế bị đình trệ, hàng hóa ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hóa lâu bền tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiết kiệm có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hóa nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng. Lãi suất với tỉ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng ( lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng ( tỷ lệ lạm phát không đổi) thì tỷ giá tăng. Khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại. -Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu: Khi lãi suất thực tế tăng lên làm cho tỉ giá hối đoái tăng lên. Tỷ giá hối đoái cao hơn làm hàng hóa của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn và hàng hóa nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng. -Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng. Khi lãi tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc gia khác. Lãi suất và lạm phát Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát. Fishes chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát. Cụ thể, lãi suất tăng sẽ thu hẹp được lượng tiền trong lưu thông, lạm phát được kiềm chế. Tuy nhiên dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì nó sẽ làm giảm đầu tư, tổng cầu, sản lượng. Do vậy phải kết hợp nó với các công cụ khác. Lãi suất và cầu tiền Cầu tiền là lượng tiền mà mọi người muốn nắm giữ. Đối với cầu giao dịch dự phòng, khi lãi suất tăng thì cầu tiền để giao dịch và dự phòng sẽ giảm. Lý do là khi giữ tiền trong tay người ta phải chịu một khoản chi phí cơ hội, cho dù đó là tiền mặt hay tiền trong tài khoản séc. Chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất mà lẽ ra bạn có thể được hưởng bằng cách này hay cách khác, nếu như không giữ tiền. Như vậy khi lãi suất càng cao thì chi phí cơ hội càng lớn. lúc đó người ta càng ít muốn giữ tiền trong tay, tức là cầu về tiền để giao dịch và dự phòng sẽ giảm. II.Diễn biến lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất 1.Nguyên nhân điều chỉnh lãi suất Nguyên nhân điều chỉnh của ngân hàng Nhà nước là do những biến động của tình hình nền kinh tế như: Lạm phát, thiểu phát, biến động của thị trường vàng, thị trường ngoại hối, sự thay đổi trong cán cân cung-cầu tiền, hoặc do mức lãi suất cũ chưa hợp lý, gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế, nên ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp giữ ổn định cho thị trường tài chính. 2.Diễn biến các giai đoạn điều chỉnh lãi suất a.Cải cách trong chính sách lãi suất từ giữa năm 2000 trở về trước Giai đoạn từ năm 1995 đến tháng 7/2000( cơ chế điều hành lãi suất trần) Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.  NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất: Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi, lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). Trong năm1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ. Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong năm các năm 1998, 1999. Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn. Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. (Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng). Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và phát triển của các công cụ tài chính, có nguy cơ làm suy yếu năng lực tài chính của TCTD. b.Tự do hóa lãi suất từng bước từ giữa năm 2000 đến nay Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến 5/2002(cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ) Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.  Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.  tháng 8 năm 2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, LSCV ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ 0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Một điểm đáng chú ý nữa là LSCV của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng LSCV vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt. Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định LSTG và LSCV từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Đặc biệt, các NHTM cổ phần dường như không thể giảm LSTG để giảm LSCV vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, khi không còn trần về lãi suất hay giới hạn lãi suất cơ bản + biên độ, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động rồi đầu tư rủi ro cao (do tác động của lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại) trước sức ép cạnh tranh. Trong khi đó, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng rằng lãi suất giờ đây sẽ phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất phản ánh các chí phí cho vay và rủi ro. Đây là giai đoạn sử dụng lãi suất cơ bản cùng với lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ. TCTD ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không được vượt quá mức lãi suất cơ bản cộng biên độ do Thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ. Giai đoạn từ 6/2002 đến năm 2006 (cơ chế lãi suất thỏa thuận) Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định.  NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Theo Thống đốc NHNN Lê Đức Thúy, đây là một bước chuyển căn bản của VN trong việc điều hành lãi suất, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động, cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp với quan hệ cung cầu vốn thị trường, đồng thời nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các TCTD VN. Với cơ chế này, Nhà nước chính thức không can thiệp vào hoạt động điều hành lãi suất bằng việc ấn định lãi suất cho vay mà chỉ gián tiếp điều tiết lãi suất nhằm có lợi nhất cho nền kinh tế. Cơ chế này cũng giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng và giúp các ngân hàng nới lỏng các biện pháp bảo đảm tiền vay (thế chấp) đối với khách hàng. Ngày 30 tháng 5 năm 2002, NHNN đưa ra Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng áp dụng từ 1-6-2002là 0,60%/tháng (7,2%/năm). Năm 2003,mức chênh lệch giữa lãi suất trần và lãi suất sàn đã được nới rộng từ 0,05%/tháng tức là 0,6%/năm (tháng 3/2003) lên 2,4%/năm(tháng 6/2003) và tháng 9/2003 là 2%/năm. Năm 2004,mức lãi suất cơ bản là 0,625%/tháng và 7,5%/năm. Năm 2005,mức lãi suất cơ bản là 0,65%/tháng và 7,8%/năm Năm 2006,mức lãi suất cơ bản là 0,6875%/tháng và 8,25%/năm Giai đoạn từ 2007 đến nay ( cơ chế lãi suất tự do) Năm 2007 NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt để rút mạnh tiền từ lưu thông về, giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: -Mức lãi suất cơ bản: 8,25%/năm -Lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm -Lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. 1/3/2007 NHNN bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân. Đầu năm 2008NHNN đưa ra quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền trong lưu thông để kiềm dẫn đến NHTM đối mặt với khó khăn thiếu nguồn cung tiền đồng do đó lãi suất huy động vốn tăng cao. 26/2/2008 NHNN ra công văn số 02/CĐ-NHNN quy định trần lãi suất là 12%/năm.17/5/2008 quyết đinh số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng việt nam được ban hành. Trong năm 2008 đã có 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản ,lãi suất tái cấp vốn , lãi suất tái chiết khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc. 23/1/2009 chính phủ đã công bố gói kích thích kinh tế với mức lãi suất 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa là 8 tháng kết thúc vào 31/12/2009. 31/12/2009 chính phủ dừng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn tăng lãi suất cơ bản bằng Việt Nam đồng từ 7% lên 8%/năm Trong năm 2010 NHNN đã ban hành thông tư số 03/2010/TT-NHNN thông tư 07/2010/TT-NHNN thông tư 12/2010 /TT-NHNN cho phép tổ chức tín dụng được thực hiện cho vay bằng đồng việt nam đồng theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. 10 tháng đầu năm mức lãi suất cơ bản là 8% còn 2 tháng cuối năm là 9% nhằm kiềm chế lạm phát. III.Đánh giá về cơ chế điều hành lãi suất Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở nước ta từ khi có mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua sáu bước chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng, phù hợp với tình hình kinh tế từng thời kỳ và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở nước ta. a. Giai đoạn từ năm 1995 đến tháng 7/2000 (cơ chế điều hành lãi suất trần) Ưu điểm: - Kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Nhược điểm: - Mức ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. -Tác động của chính sách vĩ mô vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế, sự điều chỉnh thường chậm nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. b.Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến 5/2002(cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ) Ưu điểm: -Chính sách lãi suất thời kỳ này đã tiến gần đến các nguyên tắc lãi suất thị trường hơn -Việc sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu khi cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng là bước chuẩn bị cho tụ do hóa lãi suất hoàn toàn sau này. Nhược điểm: -Việc khống chế biên độ dao động trên của lãi suất cơ bản làm hạn chế phần nào tính thị trường của lãi suất, làm cho cơ chế này về bản chất vẫn là cơ chế điều hành trần lãi suất. c. Giai đoạn từ 6/2002 đến năm 2006 (cơ chế lãi suất thỏa thuận) Ưu điểm: -Cơ chế lãi suất trần tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động trong việc huy động và cho vay vốn. Lãi suất phản ánh được cung cầu trên thị trường, tạo điều kiện khai thác triệt để sức mạnh của cơ chế thị trường. Nhược điểm: -Cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện, lãi suất vẫn còn thiếu tính thị trường. NHTM chi phối lãi suất trên thị trường -Chưa phát huy tốt hiệu quả của cơ chế lãi suất thỏa thuận do các yếu tố nền tảng vẫn trong quá trình hoàn thiện. d. Giai đoạn từ 2007 đến nay ( cơ chế lãi suất tự do) Ưu điểm: -Thị trường tiền tệ và lãi suất cơ bản tương đối ổn định ở các tháng đầu năm -Cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường Nhược điểm: -Việc khống chế biên độ lãi suất làm cho các tổ chức tín dụng không thể phản ánh kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong nước và ngoài nước có biến động -Chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bị thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không thể tăng được nữa. -Cơ chế lãi suất tự do vẫn chưa được hoàn thiện vẫn chưa phát huy tốt hiệu quả của nó. Quá trình đã đạt được những thành tựu không nhỏ: Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát.  Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi.  Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Những phản ứng tích cực của thị trường là cơ sở khẳng định tính đúng đắn của Thông tư 07, 13. Và những phản ứng này là một tín hiệu tốt để NHNN thực hiện những bước tiếp theo nhằm tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Quá trình vẫn còn một số hạn chế: Hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế điều hành LS chưa cao Nguyên nhân: Năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. Trên thị trường có sự cạnh tranh không lành mạnh. Biểu hiện là tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các NHTM. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Những động thái tiêu cực đó là nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong hệ thống tài chính. Các dự án trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ Ngân hàng. Điều này là 1 trở ngại đối việc phát huy hiệu lực, hiệu quả của các chính sách do NHNN đưa ra. Bên cạnh đó, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Mức độ tự do của LS còn hạn chế: Một trong những lý do là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó. Việc điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất rất dễ gây ra mất ổn định trong nền kinh tế và khó có thể đảm bảo các mục tiêu của CSTT. Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột. Những tác động không mong muốn trong cơ chế truyền dẫn Lãi suất thực dương là 1 tất yếu trong cơ chế tự do hóa lãi suất. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mại khác. Tuy nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Để thu hút nguồn vốn, các ngân hàng có thể bước vào 1 cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động khi NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động. Với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát. Xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý I/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Tuy nhiên, ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế. Tính kỷ luật trong hoạch định các chính sách vĩ mô chưa cao, tình trạng mâu thuẫn của các mục tiêu của các chính sách vẫn thường xảy ra. Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các chính sách khác ( như yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng tới sự ổn định này. IV.Bài học kinh nghiệm từ một vài nước Mỗi quốc gia khác nhau, vào từng thời kỳ khác nhau của nền kinh tế, tùy thuộc vào mô hình của NHTW mà quốc gia đó sở hữu, sẽ có khả năng quyết định việc điều chỉnh hay giữ ngu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá cơ chế điều hành lãi suất Việt Nam giai đoạn 1995 đến nay.doc
Tài liệu liên quan