MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
CHƯƠNG 1 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI TIÊU CÔNG
1.1.Khái niệm và đặc điểm của chi tiêu công 3
1.1.1. Khái niệm chi tiêu công 3
1.1.2. Đặc điểm chi tiêu công 3
1.2. Phân loại chi tiêu công 3
1.3. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu công 4
1.3.1. Vai trò của chi tiêu công 4
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu công .4
CHƯƠNG 2 6
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHI TIÊU CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng trường học trên toàn quốc .5
2.2. Chi tiêu công cho lĩnh vực giáo dục đào tạo ở Việt Nam trong những năm gần đây 5
2.2.1. Ngân sách Nhà nước dành cho chi tiêu giáo dục 6
2.2.2. Chi tiêu công cho giáo dục đào tạo phụ thuộc vào các yêu tố 9
2.2.3 Đánh giá hoạt động chi tiêu công của Nhà nước . 10
2.3. Đánh giá sự tham gia hoạt động của các trường tư 11
CHƯƠNG 3 14
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG CHI TIÊU CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11731 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đánh giá hoạt động chi tiêu công trong lĩnh vực giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chi tiêu công là nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng
đồng dân cư ở các vùng hay phạm vi quốc gia.
- Chi tiêu công luôn gắn liền với các bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước thực hiện.
- Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính công cộng.
- Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới hình thức các khoản chi tiêu công.
Phân loại chi tiêu công
Việc phân loại chi tiêu công nhằm mục đích sau:
- Gíup cho Chính phủ thiết lập được những chương trình hành động.
- Tăng cường tính hiệu quả trong việc thi hành NSNN nói chung và chi tiêu công nói riêng.
- Quy định tính trách nhiệm trong việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước.
- Cho phép phân tích ảnh hưởng của những hoạt động tài chính của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Có thể xem xét một số tiêu thức phân loại sau:
Căn cứ theo chức năng của Nhà nước:
Chi tiêu công được chi cho các hoạt động:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng
- Tòa án và viện kiểm soát
- Hệ thống quân đội và an ninh xã hội
- Hệ thống giáo dục
- Hệ thống an sinh xã hội
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp
- Hệ thống quản lý hành chính Nhà nước
- Chỉ tiêu cho các chính sách đặc biệt ( viện trợ nước ngoài, ngoại giao, chính trị….)
- Chi khác
Căn cứ theo tính chất kinh tế:
Chi tiêu công được chia thành:
- Chi thường xuyên:
- Chi hoạt động sự nghiệp
- Chi hành chính
- Chi chuyển giao
- Chi an ninh, quốc phòng
- Chi đầu tư phát triển:
- Chi xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, ưu tiên cho những công trình không có khả năng thu hồi vốn.
- Đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia quản lý và điều tiết của Nhà nước.
- Chi hỗ trợ cho các quỹ hỗ trợ tài chính của Chính phủ.
- Chi dự trữ Nhà nước.
Căn cứ theo trình tự lập dự toán NSNN:
Chi tiêu công được chia thành:
- Chi tiêu công theo các yếu tố đầu vào.
- Chi tiêu công theo các yếu tố đầu ra.
Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu công
Vai trò của chi tiêu công
Trong nền kinh tế thị trường, chi tiêu công có các vai trò cơ bản sau:
- Chi tiêu công có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư của khu vực tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Chi tiêu công góp phần điều chỉnh chu kỳ kinh tế.
- Chi tiêu công góp phần tái phân phối thu nhập xã hội giữa các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội
Các nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu công
- Sự phát triển về vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Nhà nước phải đảm nhận trong từng thời kỳ.
- Các nhân tố khác.
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHI TIÊU CÔNG TRONG LĨNH
VỰC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng trường học trên toàn quốc:
Được sự đầu tư lớn của Nhà nước về tài chính, hàng loạt các trường học đã được xây dựng, thành lập để đáp ứng nhu cầu giáo dục ngày càng tăng lên của người dân.
Tổng cục thống kế đã có số liệu thống kê về số lượng trường công lập và trường ngoài công lập ở tất cả các bậc học trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học ở Việt Nam trong những năm từ 2000 – 2008 và số liệu sơ bộ của năm 2009 như sau:
Bảng 1:
Giáo dục đại học và cao đẳng
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Sơ bộ 2009
Số trường học(*)
(Trường)
178
191
202
214
230
277
322
369
393
403
Công lập
148
168
179
187
201
243
275
305
322
326
Ngoài công lập
30
23
23
27
29
34
47
64
71
77
Bảng 2:
Giáo dục trung học chuyên nghiệp
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Sơ bộ 2009
Số trường học (Trường)
253
252
245
268
285
284
269
275
282
282
Công lập
246
241
231
238
239
227
205
203
203
198
Ngoài công lập
7
11
14
30
46
57
64
72
79
84
Nhìn vào bảng số liệu từ năm 2000 – 2009 ta thấy: trong tổng số trường học ở trên toàn quốc ở các cấp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học thì:
Năm 2000: số lượng trường công lập là 394 trường, chiếm 91,42 % trong tổng số trường học. Số lượng trường ngoài công lập là 37 trường, chiếm 8,58 % trong tổng số trường học.
Năm 2009: số lượng trường công lập là 524 trường, chiếm 76,5 % trong tổng số trường học . Số lượng trường ngoài công lập là 161 trường, chiếm 23,5 % trong tổng số trường học.
2.2. Chi tiêu công cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam trong những năm gần đây:
2.2.1. Ngân sách Nhà nước dành cho chi tiêu giáo dục:
Ngày 12/12 vừa qua, tại Hà Nội, Hội đồng Quốc gia giáo dục tổ chức phiên họp toàn thể, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng chủ tịch Hội đồng Quốc gia giáo dục dự và chủ trì phiên họp. Phát biểu ý kiến tại phiên họp thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là quốc sách, là động lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Vì vậy, Ngân sách luôn ưu tiên hàng đầu cho lĩnh vực giáo dục đào tạo. Nhà nước sẽ tiếp tục dành ưu tiên cho giáo dục ( hơn 20% Ngân sách) và có cơ chế phù hợp, huy động nguồn lực tham gia vào lĩnh vực giáo dục như tạo điều kiện về đất đai và vốn để mở trường dân lập ở tất cả các cấp học…Thủ tướng nhấn mạnh, riêng về mức đóng học phí: các trường dân lập phải hoàn toàn tự chủ về tài chính còn các trường công lập thì Chính phủ sẽ có quy định cụ thể đối với từng vùng, miền để phù hợp điều kiện kinh tế của người dân.
Trong Quyết toán chi Ngân sách Nhà nước của Bộ Tài Chính đã chỉ ra:
ĐVT: tỷ đồng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
TỔNG CHI
108961
129773
148208
181183
214176
262697
308058
399402
494600
Trong tổng chi
Chi đầu tư phát triển
29624
40236
45218
59629
66115
79199
88341
112160
135911
Trong đó: Chi XDCB
26211
36139
40740
54430
61746
72842
81078
107440
124664
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội
61823
71562
78039
95608
107979
132327
161852
211940
258493
Trong đó:
Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo
12677
15432
17844
22881
25343
28611
37332
53774
63547
Chi sự nghiệp y tế
3453
4211
4656
5372
6009
7608
11528
16426
19918
..................
…….
…..
….
………..
…….
……..
…….
………
…
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
864
849
535
111
78
69
135
185
152
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy:
Ngân sách Nhà nước chi tiêu cho giáo dục tăng liên tục qua các năm từ 2000 – 2008. Năm 2000, Nhà nước chi 12.677 tỷ đồng cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, chiếm 20,51(%) trong chi cho phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội tương ứng với 11,63 (%) trong tổng chi Ngân sách Nhà nước.Nhưng tới năm 2008, Nhà nước đã chi cho sự nghiệp giáo dục tới 63.547 tỷ đồng, chiếm 24,58 (%) trong chi cho phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội tương ứng với 12,85 (%) trong tổng chi Ngân sách Nhà nước.
Cụ thể hơn, ta có thể nhìn vào bảng cơ cấu chi ngân sách Nhà nước năm 2000 – 2008 để đánh giá như sau:
Cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước
ĐVT: %
Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
TỔNG CHI
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Trong tổng chi
Chi đầu tư phát triển
27.19
31.00
30.51
32.91
30.87
30.15
28.68
28.08
27.48
Trong đó: Chi XDCB
24.06
27.85
27.49
30.04
28.83
27.73
26.32
26.90
25.21
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội
56.74
55.14
52.66
52.77
50.42
50.37
52.54
53.06
52.26
Trong đó
Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo
11.63
11.89
12.04
12.63
11.83
10.89
12.12
13.46
12.85
…………………
………
…….
…….
….
…….
…….
……
…..
……
Chi bổ sung quĩ dự trữ TC
0.78
0.65
0.36
0.06
0.04
0.03
0.04
0.05
0.03
Còn theo số liệu của Bộ Tài Chính, gần đây nhất là 9 tháng đầu năm 2010. Phân theo chức năng thì Ngân sách Nhà nước được sử dụng cho chi tiêu là:
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC PHÂN THEO CHỨC NĂNG
FUNCTIONAL CLASSIFICATION OF EXPENDITURE
Đơn vị tính: Tỷ đồng -Bill VND
STT
9 tháng
Chỉ tiêu
Items
2010
No
(9 months 2010)
A
Tổng chi cân đối
NSNN
Totalbalance expenditures
393,859
I
Chi thường xuyên
Current expenditures
301,739
….
…..
…….
…….
3.1
Chi giáo dục
Education
52,405
II
Chi đầu tư phát triển
Expenditure oninvestment
development
92,120
III
Dự phòng
Contingency
B
Chi kết chuyển năm sau
Brought forwarExpenditure
Theo các báo cáo của Bộ GD&ĐT, ngân sách Nhà nước cho giáo dục năm 2006 tăng so với năm 2005 là 13.940 tỷ đồng, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 11.400 tỷ đồng, năm 2008 dự kiến tăng so với năm 2007 là 9.430 tỷ đồng. Riêng phần ngân sách cho chi thường xuyên của năm 2006 là 42.625 tỷ đồng, của năm 2007 là 51.860 tỷ đồng.
Tổng số giáo viên, các cấp từ mầm non đến đại học năm 2006 vào khoảng 1.053.720 người, trong đó số giáo viên ngoài công lập, giáo viên hợp đồng và giảng viên thỉnh giảng là 145.414 người (số này không hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, riêng giáo viên mầm non bán công ở các địa phương vùng nông thôn được trợ cấp trong khoảng từ 450.000 đến 800.000 đồng/người/tháng và hỗ trợ mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế).
Nếu lấy mức dự toán chi lương và các khoản có tính chất lương bình quân 1 năm cho 1 giáo viên công lập ở các cấp là: mầm non là 22,671 triệu đồng, tiểu học là 24,786 triệu đồng, THCS là 23,868 triệu đồng, THPT là 29,203 triệu đồng, GDTX, TCCN và ĐH-CĐ là 30 triệu đồng. Số cán bộ quản lý giáo dục các cấp khoảng 90.400 người, dự toán chi lương và phụ cấp bình quân là 35 triệu đồng/người/năm.
Như vậy, tổng quỹ lương từ ngân sách Nhà nước của toàn ngành theo tính toán năm 2006 là 26.259 tỷ đồng.
Như vậy, tỷ lệ quỹ lương trong tổng chi ngân sách thường xuyên của ngành năm 2006 chỉ chiếm khoảng 61,60% (26.259/42.625 tỷ đồng). Tức là, ngoài kinh phí riêng chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, cho các chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo, thì trừ quỹ lương ra, ngành còn 38,40% tổng chi thường xuyên (tương đương 16.366 tỷ đồng) chi cho các hoạt động của nhà trường và cơ quan quản lý giáo dục.
- Năm 2010, chỉ trong 9 tháng đầu mà chi tiêu của Nhà nước cho giáo dục đào tạo đã là 64,301 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,33 (%) trong tổng chi của Ngân sách Nhà nước. Đó là 1 con số lớn, chứng tỏ Nhà nước ưu tiên cho phát triển giáo dục đào tạo rất nhiều.
- Theo Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch và ngân sách năm 2010 của Bộ GD – ĐT, ông Nguyễn Văn Ngữ, vụ trưởng vụ kế hoạch tài chính cho biết tổng chi ngân sách giáo dục được giao năm 2010 là 4.937,497 tỷ đồng, trong đó vống trong nước là 4.011,31 tỷ đồng, vốn nước ngoài là 926,18 tỷ đồng. Bộ đã phân bổ chi cụ thể như: chi thường xuyên sự nghiệp giáo dục và đào tạo là 2.721,85 tỷ đồng, trong đó đào tạo sau đại học là 89,38 tỷ đồng, đào tạo đại học cao đẳng là 1.288,92 tỷ đồng, triển khai đề án đào tạo theo chương trình tiến lên là 154,9 tỷ đồng, đào tạo hợp tác quốc tế là 737,60 tỷ đồng. Sự nghiệp khoa học công nghệ là 252,324 tỷ đồng. Chương trình mục tiêu giáo dục quốc gia và đào tạo là 308 tỷ đồng. Đầu tư xây dựng cơ bản là 1.019 tỷ đồng…
- Đối với năm 2011, tổng dự toán chi Ngân sách Nhà nước của Bộ GD – ĐT là 5.081,6 tỷ đồng , tăng 2,9 % so với năm 2010. Ông Nguyễn Văn Ngữ cho biết năm 2011 là năm đầu tiên của thời kỳ ổn định ngân sách (2011 – 2013) thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Trong đó : chi quản lý hành chính tăng 5,3 % , chi sự nghiệp khoa học công nghệ tăng 8,1 % , chi sự nghiệp bảo vệ môi trường tăng 5,3 %, chi đầu tư xây dựng cơ bản giảm 11,8 %... Trong số tổng chi đó, vốn trong nước là 4.137,849 tỷ đồng và vốn nước ngoài là hơn 942 tỷ đồng.
- Theo đó, các trường phổ thông dân tộc, dự bị đại học dân tộc, ngân sách Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên. Các trường đại học , cao đẳng khối sư phạm, khối văn hóa – thể thao, khối nông – lâm – ngư, khối công nghệ kỹ thuật, ngân sách Nhà nước đảm bảo một phần chi hoạt động thường xuyên; các trường đại học khối kinh tế - tài chính đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần các hoạt động không thường xuyên.Bộ dự kiến chi thường xuyên là 4.183,109 tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm 2010, trong đó chi sự nghiệp giáo dục đào tạo 3.847,19 tỷ đồng. Phân bổ cho đào tạo học sinh, sinh viên trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học và sau đại học là 1.765,68 tỷ đồng, trong đó chi bù học phí cho các trường sư phạm là 249,79 tỷ đồng.
- Chi thường xuyên đào tạo học sinh, sinh viên trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng đại học và sau đại học là: 1.320,69 tỷ đồng. Như vậy, cùng với mức hỗ trợ ngân sách nhà nước cấp và mức thu học phí chính quy được theo lộ trình quy định tại Nghị định 49/2010/NĐ-CP thì chi phí đào tạo bình quân cho 1 HS, SV đã được nâng lên so với năm 2010, cụ thể:
- Đào tạo tiến sỹ: khoảng từ 10,29 - 12,04 triệu đồng/hv/năm, tăng 52%.
- Đào tạo thạc sỹ: khoảng từ 7,13 - 8,18 triệu đồng/hv/năm, tăng 34%.
- Đào tạo đại học: khoảng từ 5,83 - 6,53 triệu đồng/sv/năm, tăng 19%.
- Đào tạo cao đẳng: khoảng từ 5,20 - 5,76 triệu đồng/sv/năm, tăng 17%.
- Đào tạo TCCN: khoảng từ 3,41 - 3,90 triệu đồng/sv/năm, tăng 30%.
Ngân sách cũng dành 38 tỉ đồng để hỗ trợ cơ sở vật chất, thiết bị cho 6 trường tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (ĐH Mở TPHCM, Viện ĐH Mở Hà Nội, Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Trường ĐH Hà Nội, Trường ĐH Ngoại thương, Trường ĐH Kinh tế TPHCM). Các chương trình tiên tiến của các trường trực thuộc bộ được chi hơn 99 tỉ đồng. Hai trường ĐH “đẳng cấp quốc tế” là Trường ĐH Việt Đức và Trường ĐH Khoa học - Công nghệ Hà Nội cũng được ngân sách dành cho 28 tỉ đồng.
2.2.2. Chi tiêu công cho giáo dục đào tạo phụ thuộc vào các yếu tố
- Chi tiêu cho giáo dục phụ thuộc vào số lượng và giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác nhau, sử dụng cho việc cung cấp giáo dục.
- Chi tiêu cho giáo dục ảnh hưởng bởi số lượng học sinh và cơ chế tổ chức và vận hành của các cơ quan giáo dục.
Có 3 yếu tố chính ảnh hưởng tới việc đầu tư tài chính cho giáo dục là:
+ Cấu trúc dân số và nhu cầu đi học.
+ Các điều kiện cho học sinh đi học và theo dõi học sinh ( điều kiện học tập).
+ Các điều kiện làm việc của giáo viên.
- Ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục.
2.2.3. Đánh giá hoạt động chi tiêu của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo
Cơ chế thị trường mở, nhưng cỗ xe giáo dục Việt Nam trong tình trạng ì ạch triền miên. Mỗi một năm, nước ta có hàng trăm cuộc hội thảo, hội nghị về giáo dục từ vi mô đến vĩ mô. Trong đó, “cộm lên” và cũng chưa ngã ngũ là vấn đề có nên chăng xem “giáo dục là dịch vụ” và “tri thức là hàng hoá”?
Cứ hễ nhắc đến sự xuống cấp của giáo dục, những cán bộ cấp cao trong ngành vẫn đổ thừa cho “kinh tế thị trường”, cho “thương mại hoá”, cho tính thực dụng, thậm chí cho sự can thiệp của công nghệ thông tin… và gán cho những cụm từ ấy nhiều tiêu cực mà quên rằng, vấn đề là ở chỗ con người ứng xử và vận dụng chúng như thế nào.
Qua rồi cái thời người đi học được thụ hưởng một nền giáo dục miễn phí. Năm 2004, Nhà nước chỉ đầu tư 17,2 % trên 150 tỉ ngân sách/ năm cho việc phát triển giáo dục (trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là: 21,2 %, Hàn Quốc : 28,2 %, Nhật: 18,7 %, Cuba: 30,1 % ).
Tuy nhiên những năm qua, Nhà nước đã không ngừng tăng ngân sách cho lĩnh vực GD&ĐT với giá trị tăng tuyệt đối trong 3 năm liên tiếp gần đây (2006-2008) đều trên dưới 10.000 tỷ.
Với quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” mấy năm nay Chi phí cho giáo dục ở Việt Nam vượt xa các nước phát triển cao! Có thể thấy, chi phí cho giáo dục ở Việt Nam rất lớn. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao thuộc khối OECD kể cả Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc. Điều này thể hiện trong chính sách của Nhà nước Việt Nam, giáo dục và đào tạo luôn được ưu tiên phát triển hàng đầu. Vì vậy, cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị được đầu tư phục vụ cho giáo dục - đào tạo tại Việt Nam luôn đáp ứng được nhu cầu của học sinh, sinh viên ….
Có người cho rằng cần phải so sánh dựa trên chi phí tính bằng tiền đô la Mỹ, và như thế chi phí cho một học sinh ở Việt Nam rất thấp. Nhưng điều này không hợp lý vì các nước có trình độ phát triển khác nhau. Chỉ có so sánh dựa vào khả năng chi phí của nền kinh tế mới có giá trị phân tích: đó chính là tỷ lệ chi phí trên GDP. Bên cạnh mặt tích cực đó, ta cũng thấy có những bất cập còn tồn tại:
Chi tiêu cho giáo dục ở VN chiếm 8,3% GDP, vượt cả Mỹ chỉ có 7,2%. Trong tổng số chi phí cho giáo dục, hiện nay người dân ở Việt Nam phải chi trả 40% cho giáo dục, trong khi ở các nước phát triển cao: trung bình dân chúng chỉ phải chi trả 20% cho giáo dục, phần còn lại là từ ngân sách nhà nước. Như vậy: ta thấy 1 bất cập là tuy Việt Nam có nền kinh tế kém phát triển, thu nhập đầu người thấp nhưng tỉ lệ đóng góp cho giáo dục mà dân chúng phải chi trả lại chiếm 1 khoản tương đối lớn, tỉ lệ đóng góp này cao gấp đôi so với những nước phát triển.
Ta có bảng số liệu so sánh:
Số liệu so sánh chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam và các nước
Việt Nam
Mỹ
Pháp
Nhật
Hàn Quốc
OCDE
Chi tiêu cho giáo dục/GDP (%)
8.3
7.2
6.1
4.7
7.1
6.1
Từ ngân sách
5
5,3
5.7
3.5
4.2
4.9
Từ dân và các nguồn khác
3,3
1,9
0.4
1.2
2.9
1.2
Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục (%)
Từ ngân sách
60
74
93
74
59
80
Từ dân và các nguồn khác
40
26
7
26
41
20
Hệ thống giáo dục ở Việt Nam tổ chức khá phức tạp, dẫn đến sự rối rắm trong việc nắm vững chi phí của nền kinh tế cho giáo dục. Vì vậy, khi nhận được Ngân sách mà Nhà nước cấp cho, Bộ GD – ĐT phải có chính sách chi tiêu sao cho hợp lý và công khai các khoản chi phí hiện tại đã sử dụng. Để có thống kê toàn diện, ngoài thống kê do Bộ GD-ĐT thu thập, Tổng cục Thống kê cũng phải điều tra thu thập những phần mà Bộ không thể cung cấp.
2.3. Đánh giá sự tham gia của các trường tư
Hiện nay, việc hạn chế trường học ngoài công lập dẫn đến sự độc quyền và rụt rè trong đầu tư giáo dục vì “sợ thương mại hoá” vẫn là một căn bệnh ác tính của các nhà tổ chức giáo dục ở Việt Nam.
Sau 7 năm thực hiện nghị quyết 90 CP ngày 21.8.1997 về xã hội hoá giáo dục, Việt Nam mới chỉ có 18,5 % cơ sở giáo dục ngoài công lập. Vấn đề tư nhân, doanh nghiệp, nước ngoài bỏ vốn mở trường tư vẫn còn gặp khó khăn từ những quy định mang tính “bóp cổ chai” như: tăng thuế má, về chế độ cho vay (hiện nay trên 95% trường dân lập chưa được Nhà nước cho vay vốn đầu tư), tâm lý phân biệt đối xử giữa trường công và trường tư về chuẩn đào tạo, chế độ giáo dục chung… dẫn đến tình trạng người giàu mở trường thì thiếu tâm, người có tâm huyết thì không có hầu bao để mở trường đào tạo. Trong khi đó, những hình thức công tư nhập nhằng như: bán công, hệ B công lập…, vẫn chưa giải quyết xong.
PGS.TS. Ðoàn Văn Ðiện, hiệu trưởng ÐH Dân lập Lạc Hồng đã gay gắt: “Hiện nay các trường công lập nhiều quá. Học sinh công lập là con rơi của Nhà nước và vị này yêu cầu Nhà nước nên mạnh dạn cho tư nhân mở trường học và chọn lựa chất lượng đào tạo. Cứ tạo điều kiện để dân lo cho sự học của chính mình…
Cần nghĩ đến tính sòng phẳng trong đầu tư cho nền kinh tế tri thức của đất nước ngay từ bây giờ bằng những cởi mở từ trong quan niệm triết lý giáo dục để khởi động, vận hành những chính sách thiết thực hơn. Vì một khi đã xem tri thức là hàng hoá, giáo dục là dịch vụ đặc biệt và việc học là một hình thức đầu tư sinh lợi cho cá nhân, cho quốc gia thì một trong những yêu cầu đặt ra là thị trường cần mở rộng tính cạnh tranh, cần nghĩ đến việc đầu vào, đầu ra và lợi nhuận như một bài toán kinh tế, để có thể xây dựng môi trường giáo dục hợp với bối cảnh.
Và cần hơn nữa một niềm tin rằng khi giáo dục phát triển theo hướng thị trường mở, dân trí nâng cao, không có nghĩa là những giá trị cao đẹp của ngành bị đánh mất mà phải ngày càng củng cố, tích cực hơn.
Theo dự thảo mới về điều lệ trường ĐH thì chỉ còn hai loại hình trường ĐH đó là trường ĐH Công lập và Tư thục. Các trường ĐH Dân lập trước đây sẽ dần chuyển đổi sang Tư thục. Về nguyên tắc cơ bản thì hình thức Dân lập và Tư thục không khác nhau nhiều
Theo Luật Giáo dục sửa đổi thì, cơ sở giáo dục dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Cộng đồng dân cư cấp cơ sở gồm tổ chức và cá nhân tại thôn, bản, ấp, xã, phường, thị trấn.
Cơ sở giáo dục dân lập hoạt động trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, nhân lực và đượcchính quyềnđịa phương hỗ trợ. Không thành lập cơ sở giáo dục dân lập ở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.
Khi Nhà nước tạo điều kiện cho các trường tư, trường ngoài công lập phát triển thì nó chắc chắn sẽ có tác động tốt, tạo ra môi trường cạnh tranh, làm cho các trường công lập hoàn thiện mình hơn để hai bên cùng có lợi.
Các trường ngoài công lập phát triển nhanh về số lượng, năm 1997 có 15 trường đại học ngoài công lập, đến tháng 9/2009 có 76 trường ngoài công lập (46 trường đại học và 30 trường cao đẳng, không kể Trường RMIT và Trường Đại học Anh Quốc-Việt Nam), tăng trên 5 lần. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục huy động ngày càng nhiều.
Về quy mô đào tạo: Quy mô đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập năm học 2008 - 2009 là 218.189 sinh viên, chiếm tỷ lệ 12,7% so với tổng số sinh viên cả nước (năm 1987, cả nước chỉ có 133.000 sinh viên trong 101 trường đại học, cao đẳng công lập). Việc tăng quy mô và đa dạng hình thức đào tạo đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của các tầng lớp nhân dân, tạo cơ hội nhiều hơn cho thanh niên ở khắp vùng, miền của đất nước có cơ hội học tập đại học.
Những vấn đề Bộ Giáo Dục nên quan tâm:
Ta thấy cổ phần hóa trong lĩnh vực giáo dục đào tạo là một trong những biện pháp cụ thế để thực hiện xã hội hóa giáo dục, thực hiện phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm. Vậy xem xét vấn đề cổ phần hóa trên cơ sở phương châm này thông qua việc thành lập các trường tư, hệ ngoài công lập hiện nay. Ta có những đánh giá như sau:
Lý thuyết hệ thống chỉ ra rằng khi hai bên hợp tác với nhau để cùng làm một việc gì đó thì hiệu suất công việc sẽ cao nhất khi sự phân công dựa trên sở trường của mỗi bên. Ở đây Nhà nước một bên, nhân dân một bên hợp tác với nhau để xây dựng giáo dục ĐH.
NN có trong tay quyền lực đối nội và đối ngoại, có ngân sách do nhân dân đóng thuế và NN phải lo mọi mặt cho dân, từ việc lớn đến việc nhỏ, việc trước mắt, hằng ngày đến việc lâu dài hằng thập kỷ, thậm chí hằng thế kỷ.
Nhân dân ở đây là các cổ đông. Dù họ có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đến đâu đi nữa thì họ cũng phải kinh doanh giáo dục có lãi, có thế trường của họ mới tồn tại và phát triển được.
Cho nên, không nên và thực tế cũng khó cổ phần hóa những trường lo chuyện lâu dài cho đất nước như các trường về khoa học cơ bản, về khoa học xã hội, các trường đạo tạo cho các lĩnh vực quản lý NN, an ninh, quốc phòng.
Chúng ta chỉ nên cổ phần hóa những trường đào tạo nhân lực để phát triển sản xuất, dịch vụ cần cho đời sống hằng ngày của nhân dân. Các cổ đông trong khu vực này có thể là những doanh nghiệp thực hiện một đầu mối giữa đào tạo và sử dụng, kiểu như đại học FPT.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THỆN HOẠT ĐỘNG CHI TIÊU CÔNG CHO LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
Để bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục, Nhà nước nên quan tâm và đầu tư đáng kể kinh phí cho việc biên soạn chương trình, sách giáo khoa; xây dựng trường lớp, mua sắm trang thiết bị giáo dục; đào tạo và bồi dưỡng giáo viên...
- Theo ý kiến của cá nhân tôi, việc tuyển sinh phải phân cấp về cho các trường, các khoa vì chỉ trường và khoa mới nắm vững đến từng chi tiết, nắm vững nhu cầu tuyển sinh của mình.Nếu bớt đi những việc vốn không phải của mình như vậy, Bộ sẽ đỡ được bao nhiêu gánh nặng, để tập trung làm công tác vĩ mô, trong đó đề ra các chính sách hỗ trợ các trường ngoài công lập.
- Cũng như mọi công cuộc đầu tư khác, việc đánh giá hiệu quả chi thu của ngành giáo dục là cần phải được làm trước khi thuyết phục người dân đồng ý bỏ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá hoạt động chi tiêu công trong lĩnh vực giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay.doc