Tiểu luận Đánh giá khái quát về tình hình thu hút FDI tại Việt Nam

 Đối với những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu và các công trình đầu tư quan trọng ngân hàng nhà nước Việt Nam cần đảm bảo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp đảm bảo bán ngoại tệ cho doanh nghiệp trong suốt thời gian hoạt động. Còn dự án khác, ngân hàng có thể xem xét cho mua ngoại tệ phù hợp với các quy định về quản lý ngoại hối.

 Cải thiện môi trường đầu tư, thủ tục hành chính vẫn là khâu cần tiếp tục được cải cách, đặc biệt là các thủ tục sau giấy phép đầu tư. Cần xem xét bỏ quy định việc xin giấy phép hành nghề đối với những dịch vụ có liên quan sau khi đã được cấp giấy phép đầu tư.

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2120 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đánh giá khái quát về tình hình thu hút FDI tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Họ và tên học viên: Nguyễn Thị Bảo Hường Lớp: CH 17Q BÀI KIỂM TRA Môn: Kinh tế đầu tư Đề bài: Đánh giá khái quát về tình hình thu hút FDI tại Việt Nam. Anh (chị) hãy trình bày các giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này tại Việt Nam. Bài làm: Đánh giá khái quát về tình hình thu hút FDI tại Việt Nam. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ đã đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế trong những năm tới của Việt Nam là 9 - 10% năm và phấn đấu đến năm 2020 mức GDP bình quân đầu người tăng lên gấp 8 - 10 lần so với hiện nay, tương đương mức 2 - 3 nghìn USD/người. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đó, yêu cầu về thu hút và dùng vốn là một trong những thách thức lớn nhất và khó giải quyết với nền kinh tế Việt Nam. Theo tính toán sơ bộ, để duy trì tốc độ tăng trưởng GDP như mục tiêu đề ra, Việt Nam cần đầu tư khoảng lớn hơn 40 tỷ USD. So với năng lực tiết kiệm nội địa hiện tại của Việt Nam thì con số này thực sự là khổng lồ, vì vậy chúng ta phải tính đến khả năng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vật tư. 1.1. Thực trạng về tình hình thu hút FDI tại Việt Nam Nhìn lại năm 1986, nền kinh tế Việt Nam với tỷ lệ đói nghèo lên đến 60%, thuần túy nông nghiệp và thu hút đầu tư FDI gần như bằng không thì sau hơn 20 năm, kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn bùng nổ, tăng trưởng kinh tế nhanh, ngày càng đa dạng hóa lĩnh vực và nguồn lực, tỷ lệ đói nghèo xuống dưới 20%. Đặc biệt ngay sau khi gia nhập WTO, thu hút vốn FDI tại Việt Nam đạt số vốn đăng ký FDI kỷ lục 64 tỷ USD năm 2008.Tính đến tháng 10/2009, cả nước có 10.805 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 174,7 tỷ USD. Nguyên nhân của dòng vốn FDI tăng mạnh tại Việt Nam là do Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO với những điều kiện thuận lợi cho thu hút FDI như: cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, giảm thuế suất thuế nhập khẩu, giảm bảo hộ và xoá bỏ phân biệt đối xử quốc gia. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất, chiếm 62,1% số dự án và 50,6% vốn đăng ký tại Việt Nam. Đến nay, 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có đầu tư vào Việt Nam, trong đó Đài Loan là nhà đầu tư số 1 với 2.010 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 21,28 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 2 với 2.283 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 20,4 tỷ USD. Tiếp theo là nhà đầu tư Malaysia, Nhật Bản và Singapore. Đầu tư nước ngoài đã có mặt 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP HCM vẫn là nơi thu hút nhiều nhà đầu tư nhất với 3.092 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 27,1 tỷ USD, chiếm 28,6% tổng dự án và 15,5% tổng vốn đăng ký cả nước. Trong hai năm 2008, 2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là kinh doanh bất động sản, lĩnh vực dịch vụ lưu trú, ăn uống. Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, để các dự án FDI có hiệu quả hơn, Việt Nam chọn lọc để hướng dòng vốn FDI vào những lĩnh vực quan trọng, ưu tiên như công nghiệp phụ trợ, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, chế biến nông sản, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, ngành sản xuất tiết kiệm năng lượng và các ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn... Theo thống kê, tính chung quý I - 2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt hơn 8 tỷ USD, tăng 29,3%, nhập khẩu khoảng 7,1 tỷ USD. Còn nếu không kể dầu thô, trong bốn tháng đầu năm 2010, khối các doanh nghiệp FDI xuất khẩu 4,13 tỷ USD, tăng 35,7% so với cùng kỳ 2009, và nhập siêu khoảng 60 triệu USD...  Tuy nhiên, tỷ lệ vốn thực hiện đạt thấp do khả năng tiếp nhận của chúng ta còn kém. Bên cạnh đó, cơ cấu FDI cũng không hợp lý. FDI vào công nghệ chế tạo và chế biến giảm liên tục từ năm 2005 đến năm 2008 (70,4% năm 2005 xuống 68,9% năm 2006, 51% năm 2007 và còn 36% năm 2008) và chủ yếu là đầu tư vào công nghiệp lắp ráp nhằm tận dụng lao động rẻ, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, đầu tư vào khai thác tài nguyên và vào bất động sản (cũng là một dạng khai thác tài nguyên đất đai) tăng lên. Đầu tư vào khai thác mỏ từ 0,8% năm 2005 lên 1,2% năm 2006 và lên tới 18,5% năm 2008, đầu tư vào khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng từ 0,9% năm 2005 tăng đến 15,1% năm 2008. Đó là chưa kể đến hiệu ứng sân golf làm một diện tích không ít đất đai (trong đó có đất nông nghiệp) và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Theo các chuyên gia kinh tế, có hai nguyên nhân quan trọng hạn chế đầu tư vào công nghiệp chế biến và công nghệ cao là do chất lượng nguồn nhân lực thấp và công nghiệp hỗ trợ không phát triển. Cơ cấu đầu tư như vậy không đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhìn lại hai năm gia nhập WTO, vẫn còn những tồn tại cần phải giải quyết trong môi trường đầu tư. Trước hết là về cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng về giao thông còn yếu kém. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế và dòng đầu tư của nước ngoài. Về môi trường pháp lý, hệ thống toà án và thực thi luật pháp còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân do các thủ tục còn rườm rà và chi phí cao, thiếu tính minh bạch. Đặc biệt là các công ty luật, đa số hoạt động kém hiệu quả và chi phí lớn đã làm giảm lòng tin đối với nhà đầu tư. Một lợi thế của Việt Nam là nguồn nhân lực, nhưng nguồn nhân lực có trình độ quản lý và tay nghề cao còn rất thiếu. Theo thống kê chỉ có gần 30% lực lượng lao động là đã qua đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa cao, chưa đồng đều và sử dụng chưa hiệu quả. Ngoài ra, dịch vụ hành chính, hệ thống thuế, hải quan... cũng còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ. 1.2. Những khó khăn vướng mắc trong việc thu hút FDI 1.2.1. Những vướng mắc về mặt pháp luật Vấn đề chuyển lỗ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài, chỉ có các doanh nghiệp liên doanh mới được chuỷen lỗ của bất kỳ năm tính thuế nào sang năm có lãi tiếp theo thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm. Nhưng cũng theo luật này, chỉ có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều là pháp nhân Việt Nam việc quy định chuyển lỗ như trên đã gây sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài. Về thuế doanh thu có hiện tượng thuế chồng lên thuế, luật thuế thu nhập công ty thuế suất chủ yếu là 32% có hiệu lực từ ngay 1/1/99 trong khi theo luật đầu tư nước ngoài có doanh nghiệp FDI trừ dầu khí và khai thác vàng bạc đá quí được hưởng thuế suất 10%, 20%, 25% trong một thời gian nhất định hoặc suốt thời gian thực hiện dự án. Như vậy tất cả doanh nghiệp FDI được cấp giấy phép sẽ chịu thuế suất thu nhập công ty 32% thay cho thuế suất từ 10 - 20% và khi đó cần bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài với thuế suất từ 5 - 10% để đảm bảo sự công bằng nhất định cho các nhà đầu tư. Thuế suất áp dụng theo pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là quá cao so với các nước lân cận vì vậy các doanh nghiệp FDI đứng trước nguy cơ khó mà duy trì đủ lượng nhân viên kỹ thuật, nhân viên quản lý có trình độ chuyên môn cần thiết để tham gia và điều hành hoạt động của doanh nghiệp và càng không thu hút được những nười giỏi vào làm việc ở Việt Nam 1.2.2. Về cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém do phải bỏ nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào, chi phí vận chuyển. Chính phủ chủ trương huy động FDI dưới hình thức BOT, BTO và BT để cải thiện cơ sở hạ tầng nhưng cho đến nay chưa đem lại hiệu quả vì các nhà đầu tư đều đánh giá rằng các công trình kết cấu hạ tầng ở Việt Nam còn nhiều rủi ro. 1.2.3. Việc quy hoạch ruộng đất, quy hoạch ngành kinh tế -kỹ thuật trong việc gọi vốn FDI còn nhiều yếu kém, chúng ta đã phê duyệt thành lập nhiều KCN ở nhiều tỉnh thành nhưng đối với các khu đã đi vào hoạt động hoặc đang tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng việc quy hoạch chi tiết rất chậm khiến các nhà đầu tư nước ngoài rất bị động trong việc chọn địa điểm nhất, thậm chí gây tâm lý hoài nghi . Nhiều dự án cần sử dụng diện tích đất lớn liên quan đến an ninh quốc phòng nhưng phối hợp quy hoạch không đồng bộ, có dự án được cấp giấy phép và chấp thuận cho thuê nhưng khi đi vào triển khai lại bị phản đối phải chuyển địa điểm, phải giảm đáng kể diện tích dẫn đến dự án kém khả thi. Việc quy hoạch gọi vốn FDI vào 1 số ngành quá yếu kém và các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã tin vaò những dự báo khả quan của ta, vì vậy, chúng ta phải chịu trách nhiệm về tình trạng thừa công suấtcủa một số ngành như: Khách sạn, nhà ở, thuê văn phòng. 1.2.4. Lực lượng lao động của chúng ta còn nhiều yếu kém. Chúng ta rất hiếm công nhân lành nghề, hiện nay việc tuyển 1 công nhân lành nghề cao khó khăn hơn việc tuyển 1 sinh viên tốt nghiệp đại học. Thêm vào nữa hệ thống các trường đại học của ta chưa đảm bảo chất lượng về đào tạo ngoại ngữ, lẫn chuyên môn, hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển chưa qua đào tạo hoặc đào tạo chưa đầy đủ chưa đạt chất lượng, chính vì vậy chi phí cho dạy nghề rất tốn kém. Lao động của ta được các chuyên gia đánh giá là chịu khó, cần cù nhưng vì ít kinh nghiệm nghề nghiệp, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất thấp. 1.2.5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhà nước. Theo luật đầu tư và các văn bản dưới luật, ngân hàng nhà nước chỉ cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu. Trong điều kiện nhà nước và doanh nghiệp đều thiếu ngoại tệ thì quy định trên là phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên trong điều kiện 70% các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá tại thị trường Việt Nam và nguyên liệu chủ yếu dựa vào nguồn nhập khẩu (linh kiện điện tử, ô tô...) việc không có 1 chính sách và biện pháp giúp đỡ tất cả các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp FDI cân đối ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu (chưa nói đến nguồn ngoại tệ để trả nợ gốc, lãi vay nước ngoài...) sẽ không đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường và cản trở việc tiếp tục huy động nguồn vốn FDI. 1.2.6. Thủ tục hành chính trong lĩnh vực FDI còn quá rườm rà nhiêu khê. Các nhà đầu tư nước ngoài kêu ca phàn nàn nhiều về việc xin giấy phép đầu tư, thủ tục thuê đất, xin giấy phép xây dựng cũng như các thủ tục triển khai thực hiện quá trình XDCB. Còn nhiều điều phải xét lại trong thủ tục kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI trong nhiều trường hợp vào kiểm tra gian lận thương mại các cơ quan hải quan đã giữ hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu quá lâu gây ách tách cho hoạt động của doanh nghiệp FDI 1.2.7. Yếu kém trong lĩnh vực kiểm tra của các cơ quan chức năng đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Trong lĩnh vực này phải nói rằng kiểm tra thì nhiều nhưng chất lượng không đạt yêu cầu bởi lẽ cán bộ được cử đi kiểm tra chưa đủ trình độ phát hiện những vi phạm của đơn vị, đặc biệt về lĩnh vực tài chính về giá xuất khẩu thành phẩm.... Sự buông lỏng quản lý trong đó bao gồm công tác kiểm tra của các đơn vị chủ quản bên Việt Nam trong các doanh nghiệp lao động với nước ngoài đã dẫn đến tình trạng không phát hiện được những yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ đến khi doanh nghiệp bị lỗ, cơ quan quản lý mới biết. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI tại Việt Nam 2.1 Giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI tại Việt Nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng và có tốc độ tăng trưởng nhanh,đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta, tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm, công nghệ mới,nâng cao năng lực sản xuất, giải quyết việc làm. Tuy nhiên hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thể hiện nhiều nhược điềm, nhiều hạn chế cần phải khắc phục, chấn chỉnh mới tạo ra những thuận lợi cho việc thu hút vốn và công nghệ tiên tiến, song thực sự nó đã trở thành một yêu cầu cấp thiết của đất nước trong quá trình đi lên, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và khu vực cũng như thế giới về nhiều mặt. Công nghiệp hóa chất là một ngành kinh tế quan trọng của công nghiệp có nhu cầu hợp tác quốc tế cao để đổi mới công nghệ, thiết bị, phát triển những ngành nghề mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của chúng ngay cả trên thị trường trong nước trong điều kiện mở cửa. Biện pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong những năm tới là: Xây dựng quy hoạch tổng thể kinh tế về các vùng kinh tế, các ngành, các lĩnh vực và các dự án đầu tư tiền khả thi để chào gọi đầu tư; tạo môi trường đầu tư hấp dẫn (hạ tầng cơ sở, thủ tục hành chính, các chính sách khuyến khích...); có sự phân biệt rõ ràng giữa các nhà đầu tư vào lĩnh vực khác nhau các nhà đầu tư có số lượng vốn khác nhau, ưu đãi các nhà đầu tư có số lượng vốn lớn và nhiều kinh nghiệm kinh doanh, các nhà đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu; đồng thời kiểm soát việc chấp hành luật pháp Việt Nam và thưởng phạt nghiêm minh, để vừa có thể khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mà vẫn hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực, bảo vệ quyền lợi đất nước Để tạo chuyển biến cơ bản dòng vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đồng thời khắc phục những yếu kém và tồn tại còn chưa được giải quyết chưa triệt để. Cụ thể, các giải pháp cho thời gian đến cần phải tập trung là: Một là, cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài: Trước hết phải khẳng định tính nhất quán, ổn định của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các quy định mới của nhà nước làm thiệt hại đến lợi ích của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước không áp dụng đối với các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép đầu tư trước đó; các quy định mới ưu đãi hơn sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp đã được cấp giấy phép trước đó. Việc bổ sung 1 số biện pháp khuyến khích và bảo đảm nhất, khẳng định tính nhất quán ổn định của chính sách đầu tư... Trong khi chúng ta chủ trương phát triển đầu tư nước ngoài trên cơ sở có tính đến quy hoạch phát triển chung và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước để tránh sự hiểu lầm từ phía các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng chúng ta đang thắt chặt điều kiện đầu tư, tạo môi trường đầu tư không rõ ràng cần ban hành ngay các danh mục: Danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư; danh mục các dự án khuyến khích đầu tư; danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện; danh mục các lĩnh vực không cấp phép đầu tư; danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư. Đối với những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu và các công trình đầu tư quan trọng ngân hàng nhà nước Việt Nam cần đảm bảo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp đảm bảo bán ngoại tệ cho doanh nghiệp trong suốt thời gian hoạt động. Còn dự án khác, ngân hàng có thể xem xét cho mua ngoại tệ phù hợp với các quy định về quản lý ngoại hối. Cải thiện môi trường đầu tư, thủ tục hành chính vẫn là khâu cần tiếp tục được cải cách, đặc biệt là các thủ tục sau giấy phép đầu tư. Cần xem xét bỏ quy định việc xin giấy phép hành nghề đối với những dịch vụ có liên quan sau khi đã được cấp giấy phép đầu tư. Cần cải tiến việc điều hành, quản lý nhà nước và chính sách cán bộ trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật và tay nghề, cho công nhân theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản, vừa đào tạo chuyên sâu. Ngoài ra, nhà nước cần sửa đổi quy định thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức đầu tư. Nhu cầu về cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài việc thành lập công ty cổ phần có vốn nước ngoài, đặc khu kinh tế.... đã và đang là yêu cầu được đáp ứng. Hai là, tiếp tục tháo gỡ những rào cản trong công tác quy hoạch: Về quy hoạch, hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Khẩn trương rà soát, điều chỉnh quy hoạch ngành nhằm dỡ bỏ các hạn chế đối với đầu tư nước ngoài phù hợp với các cam kết quốc tế song phương và đa phương. Trong quy hoạch cần quan tâm thỏa đáng đến lợi thế so sánh của từng ngành và từng địa phương trong thu hút đầu tư nước ngoài. Cần khắc phục những bất hợp lý trong quy hoạch theo kiểu truyền thống, tăng cường đầu tư nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng như cung cấp điện, nước, các công trình giao thông, cảng biển nhằm tạo thuận tiện cho các nhà đầu tư. Ba là, tháo gỡ những vướng mắc trong triển khai thực hiện dự án: Tiếp tục rà soát các dự án đã được cấp phép, trên cơ sở đó tập trung tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc nhằm thúc đẩy triển khai dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các dự án lớn, chuyển giao công nghệ nguồn mở rộng sản xuất kinh doanh. Cần sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh, thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân, không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, tác động xấu đến môi trường, thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất… Bốn là, cơ sở hạ tầng cần được nâng cấp nhanh chóng, đặc biệt là các cảng biển và nhà máy điện. Mạnh dạn hơn nữa trong việc cho phép và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng, nhất là những công trình hạ tầng đang xây dựng dở dang và đã kéo dài nên được hoàn thành tránh sự lãn phí không đáng có. Năm là, cần xoá bỏ những giấy phép không cần thiết, đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết. Cần công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý. Trong đó, cần rà soát lại các văn bản phát quy liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, sửa đổi các văn bản cho phù hợp với quy định của WTO. Sáu là, từng bước đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực. Phải xác định cho đúng những đối tượng cần được đào tạo và đào tạo lại, tránh tình trạng đào tạo tràn lan mà không biết sử dụng vào việc gì. Đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ lao động đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, có chất lượng và tay nghề cao phục vụ cho nhu cầu của cả nước và xuất khẩu. Bảy là, dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Một số cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tập trung phát triển mạnh những ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Tám là, mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh tế và thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Thiết lập một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên, mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. 2.2. Giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng FDI tại Việt Nam 2.2.1. Tạo điều kiện để thực hiện các dự án Tốc độ thực hiện dự án đầu tư là 1 yếu tố quan trọng trong quyết định đến hiệu quả nhất, quá trình thực hiện càng nhanh thì dự án càng sớm đi vào sản xuất đem lại hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện dự án, các nhà đầu tư còn gặp trở ngại thủ tục hành chính rườm rà , giải phóng mặt bằng chậm chễ... Để cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được triển khai nhanh chóng, sớm phát huy hiệu quả, chúng ta cần thiết phải tháo gỡ những trở ngại trên. Cùng với việc cải tiến thủ tục hành chính, hoàn thành các văn bản pháp quy, chúng ta cần phải cải tạo và xây dựng mới hệ thống cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. 2.2.2. Quản lý nhà nước. Cung cụ quan trọng nhất để nhà nước thực hiện vai trò kinh tế là việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, ban hành chính sách, pháp luật. Thẩm định dự án là khâu đầu tiên xác định hiệu quả của một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Công việc này đỏi hỏi phải được tiến hành nhanh chóng chuẩn xác. Muốn có kết quả tốt yêu cầu phải có đầy đủ thông tin cần thiết những kiến thức khoa học về kinh tế, kỹ thuật. Quản lý dự án sau giấy phép đầu tư là công đoạn khó khăn nhất chiếm thời gian và công sức nhất trong toàn bộ quy trình quản lý nhà nước, nó quyết định thành công và hiệu quả của hoạt động hợp tác đầu tư. Việc buông lỏng quản lý dự án sau giấy phép đầu tư đã gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc triển khai thực hiện dự án một cách có hiệu quả. Công tác tổ chức cán bộ là yếu tố quyết định nhất nhưng đang là khâu yếu nhất trong công tác quản lý nhà nước. Hầu hết các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đầu tư chưa có kiến thức và kinh nghiệm về đầu tư nước ngoài, ít hiểu biết pháp luật ngoại ngữ kém. Nhưng họ lại được nhận công việc khó khăn, mới mẻ vượt quá sức của họ. Để đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài, chúng ta cần đặc biệt chú trọng đến công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ. 2.2.3. Tăng khả năng tiếp nhận đầu tư nhà nước. Khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài của nền kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp là một nhân tố quyết định hiệu quả nhất. Đầu tư FDI chỉ phát huy hiệu quả tốt khi chúng ta có khả năng tiếp nhận tốt. Để tiếp tục nhận một cách có hiệu quả FDI đòi hỏi chúng ta phải có 1 tỷ lệ hợp lý vốn đối ứng trong nước. Nhưng vấn đề là làm thế nào để huy động được nhiều vốn trong nước đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư một cách chủ động, điều đó phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế khả năng huy động vốn tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế. Về năng lực tiếp nhận đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Trong các doanh nghiệp liên doanh, phần vốn góp của bên Việt Nam còn thấp, trung bình từ khoảng 25%. Phần vốn góp ít không chỉ có nghĩa là phần lợi nhuận được chia thấp, mà quan trọng hơn về lâu dài là quyền chi phối hoạt động kinh tế của cơ sở kinh doanh thuộc về các chủ đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của các công ty nước ngoài và nâng cao hiệu quả của hợp tác đầu tư, các bên đối tác Việt Nam cần tăng tỉ lệ góp vốn trong cá liên doanh với nước ngoài, về lâu dài có thể mua cổ phần của bên nước ngoài. Để tăng cường tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai, ngoài sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp nó cần thiết phải có sự giúp đỡ của Nhà nước bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh tăng sức mạnh kinh tế. Đây là công việc mang tính chiến lược nó phục vụ cho lợi ích lâu dài của chúng ta trong hợp tác đầu tư với nước ngoài cũng như trong quá trình phát triển kinh tế. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò to lớn để phát triển kinh tế. Đối với các nước đang phát triển như nước ta vai trò của vốn FDI lại càng lớn hơn và cũng là một nguồn quan trọng để phát triển đất nước và tiến hành CNH - HĐH đất nước. Vì thế, thu hút vốn FDI để đáp ứng cho phát triển là một nhu cầu tất yếu và khách quan. Mặc dù nước ta đã có một số thành tựu trong việc thu hút vốn FDI song hạn chế vẫn nhiều hơn thành công và cơ hội luôn tiềm ẩn những thách thức, khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn mong rằng hạn chế và khó khăn sẽ được xóa bỏ trong tương lai, thách thức sẽ được vượt qua và cơ hội sẽ được tận dụng một cách đầy đủ và khôn ngoan. Và chúng ta cũng cần biết rằng, để tăng cường việc thu hút vốn FDI liên doanh, nước ta không những cần những cơ chế, chính sách thực sự đủ hấp dẫn nhà đầu tư mà còn cần một tầm nhìn chiến lược và một kế hoạch cụ thể từ việc vận động xúc tiến đến sử dụng vốn FDI sao có hiệu quả mới thực sự thu hút được các nhà đầu tư về lâu về dài cũng như thức sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của quốc gia./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26643.doc
Tài liệu liên quan