TPCP bằng ngoại tệ phát hành trong nước trong những đợt gần đây, đặc biệt trong năm 2009 đều không thu được kết quả như mong muốn, nguyên nhân chính là do vấn đề lãi suất không hấp dẫn. Đợt phát hành thứ nhất vào tháng 3/2009, 3 lần đấu thầu chỉ huy động được 230,11 triệu USD trong tổng số 300 triệu USD được đưa ra mời thầu. Đợt 2 vào tháng 8/2009, trái phiếu ngoại tệ kỳ hạn dài số lượng bỏ thầu rất ít. Trong đó, cả 3 phiên chỉ huy động được 100 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu chào bán kỳ hạn 1 năm; 47 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 2 năm; và 10 triệu USD/50 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 3 năm. Đợt phát hành thứ 3, và thứ 4 vào ngày 29/12/2009, kết quả chỉ huy động được 73 triệu USD trong tổng số 200 triệu USD giá trị trái phiếu gọi thầu, đạt 36,5%. Tỷ lệ huy động thành công có xu hướng giảm dần theo từng đợt phát hành kể từ đầu 2009 tới nay. Tính chung cả năm 2009, khối lượng huy động đạt 530,2 triệu USD (tương đương 9.278 tỷ đồng, theo tỷ giá ước tính 17.500 đồng/USD) trên tổng số 850 triệu USD gọi thầu
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2710 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 10 năm qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h dẫn vốn từ nơi có vốn tới nơi cần vốn, nhờ đó mà mỗi đồng vốn đựơc sử dụng hiệu quả hơn.
- Khả năng tích tụ và tập trung vốn của TTCK là rất lớn , nó có thể thu hút vốn từ :
+ Khu vực NĐT có nguồn vốn lớn.
+ Nguồn vốn trong dân cư
+ Nguồn vốn từ nước ngoài.
- Đặc điểm của nguồn vốn trong dân cư : Qui mô lớn song nhỏ lẻ, rời rạc. Với TTCK ,những NĐT có vốn nhỏ lẻ vẫn có thể đầu tư vào các CK nhờ mệnh giá của CK là khá nhỏ, khối lượng CK được giao dịch rất linh hoạt . Nhờ vậy có thể tích tụ được 1 khối lượng lớn vốn không chỉ từ các nguồn lớn mà còn từ rất nhiều NĐT nhỏ lẻ nữa.
- Không những thu hút đựơc nguồn vốn từ dân cư mà còn thu hút đựơc vốn từ nước ngoài, nhờ chính sách mở cửa của NN, cho phép NĐT nước ngoài tham gia TTCK.
- Người có vốn đem đi đầu tư thường muốn có thời hạn đầu tư ngắn để giảm rủi ro . Trong khi đó các nhà phát hành ck lại muốn huy động vốn với thời hạn dài. Cùng với hệ thống NH, TTCK đã thực hiện rất tốt việc chuyển thời hạn của vốn để 2 yêu cầu trên hoà hợp với nhau.
-Vì TTCK là 1 kênh dẫn vốn trực tiếp, NĐT tự mình lựa chọn sẽ đầu tư vốn của mình vào dn nào, hiển nhiên họ sẽ muốn tìm những DN có tình hình hoạt động kinh doanh tốt, hứa hẹn phát triển mạnh mẽ. Do đó, trên TTCK, chỉ những DN nào chứng minh đựơc năng lực hoạt động của mình mới có nhiều khả năng nhận đựơc vốn. Điều này tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các DN với nhau, cộng thêm hiệu quả của thông tin hoàn hảo trên TTCK, vốn luôn đựơc ưu tiên rót vào những nơi sử dụng nó 1 cách tối ưu .
b)Cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai :
Diễn biến của ttck được cho là luôn đi nhanh hơn diến biến chu kỳ KD của nền kt, do TT này có sự giao dịch sôi động và hiệu quả, nên nó phản ánh sớm nhất và rõ nét nhất những thay đổi trong môi trường kt vĩ mô. Bởi vậy nó đựoc coi là hàn thử biểu hữu hiệu của nền kinh tế.
c) Tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Tái cấu trúc nền kinh tế là một quá trình tổ chức lại nền kinh tế, làm thay đổi thành phần hay cấu tạo của nền kinh tế, giúp nền kt phát triển theo chiều sâu, đối mặt được với những biến động tiêu cực.
Trong hoạt động tái cấu trúc nền kt, mỗi giai đoạn lại cần huy động vốn với qui mô, mục đích, phương thức khác nhau, do đó luôn cần những nguồn cung vốn dồi dào . Thêm vào đó NN , nhân tố chìa khoá trong quá trình trên, có một phương thức huy động vốn hiệu quả và tránh đựơc nhiều tác động tiêu cực đến nền KT chính là thông qua thị trường chứng khoán. Như vậy TTCK , cùng với hệ thống NHTM là 1 nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho nền kt, do đó nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái cấu trúc nền kt.
Mặt khác, trong quá trình tích tụ và phân phối vốn ở TTCK, dòng vốn sẽ không ngừng biến đổi, lựa chọn chảy vào những ngành nghề kinh doanh đang phát triển tốt, hoặc hứa hẹn nhiều tiềm năng .NN có thể sử dụng chính sách phù hợp để hướng các dòng vốn trên vào các ngành chủ chốt , ưu tiên phát triển của nền kinh tế.
d) Hiệu quả quốc tế hoá của TTCK:Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty huy động đựơc nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm nước ngoài, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng cơ hội kinh doanh cho các DN trong nước.
4. Với cấp quản lý kinh tế:
Nơi thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ, từ đó tác động lên toàn bộ nền kinh tế.
NN có thể thông qua TTCK huy động các nguồn tc mà không tạo áp lực lạm phát, đồng thời nó cũng là công cụ thực hiện các chính sách tiền tệ .
Ví dụ : Chính phủ có thể mua trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách mà không cần in thêm tiền , do đó không gây ra lạm phát. Đồng thời, khi xuất hiện dấu hiệu cho thấy có quá nhiều tiền trong lưu thông, CP có thể bán trái phiếu để kiểm soát lạm phát.
Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Chương II:“ Sự phát triển của TTCK VN 10 năm qua”
Sự ra đời của TTCKVN:
UBCK VN ban hành Nghị định 75/CP ngày 28/11/1996.
Chính phủ ban hành Nghị định 48/CP về CK và TTCK ngày 11/07/1998.
Cùng ngày, CP cũng kí quyết định thành lập TT GD CK tại TP.HCM và HN.
Giai đoạn 2000 – 2005: giai đoạn chập chững biết đi của TTCK:
TTGDCK Tp. HCM được đưa vào vận hành 20/07/2000.
Phiên giao dịch đầu tiên 28/07/2000: chỉ có 2 DN niêm yết 2 loại cổ phiếu ( REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một ít TPCP.
Từ khi thành lập đến năm 2005, thị trường luôn trong trạng thái gà gật, không có biến động mạnh, ngoại trừ cơn sốt trong 4 tháng của năm 2001.VN Index ngày 25/04/2001 đạt mức cao nhất 571,04 điểm nhưng đến tháng 10 thì đã giảm 70%, chỉ còn khoảng 200 điểm.
Nói chung thì TTCK trong giai đoạn này chưa thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
TTCK đang trong giai đoạn chuẩn bị tạo tiền đề cho sự phát triển với 2 sự kiện:
+ 19/02/2004: Chuyển UBCKNN vào Bộ Tài chính quản lý. Trước đó, 28/11/1996, UBCKNN được thành lập và trực thuộc chính phủ, tuy nhiên, giai đoạn đầu TTCK còn quá nhỏ bé, hoạt động khá sơ khai nên mô hình hoạt động chưa phù hợp và chưa mang lại hiệu quả: chưa có sự gắn kết giữa các bộ, ban ngành liên quan để đưa ra những chính sách phù hợp cho sự hoạt động của TTCK.
+ 08/03/2005: TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương và đi vào hoạt động.
Giai đoạn 2006: sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam:
Hoạt động giao dịch sôi nổi ở cả 3 sàn: SGD TP HCM
TTGDCKHN
TT OTC
Trong vòng 1 năm:
+ Khối lượng vốn hóa tăng 15 lần: lên 13,8 tỷ USD (22,7% GDP)
+ VN Index cuối năm tang 146% so với đầu năm: từ hơn 300 điểm lên hơn 800 điểm.
+ Số công ty niêm yết tang 5 lần: từ 41 lên 193.
Giai đoạn 2007: TTCK bùng nổ:
3 tháng đầu năm: TTCK bùng nổ, VNIndex đạt mức đỉnh 1.170,67 điểm. Nguyên nhân là do sức cầu tang đột biến.
Ngày 01/07/2007 luật Chứng khoán chính thức có hiệu lực tạo khung pháp lý cho hoạt động của TTCK. Từ đó thúc đẩy TTCK phát triển, tang cường khả năng hội nhập vào TTTCQT.
Qua 7 năm, với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK Thế giới, 08/08/2007: SGDCK TP.HCM chính thức được khai trương.
Giai đoạn 2008: TTCK sụt giảm mạnh:
CP đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, hàng loạt ngân hàng, cty chứng khoán, dn,… phát hành TP,CP để tăng vốn điều lệ đã dẫn đến tình trạng thị trường có nguy cơ thừa hàng.
Giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 6: thị trường giảm mạnh do tác động từ tác động kinh tế vĩ mô: gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ, sự leo dốc của giá xăng,giá dầu,…đã tác động tới tâm lý nhà đầu tư.
Giai đoạn từ tháng 6 tới đầu tháng 9: phục hồi trong ngắn hạn nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue chip như FPT, STB,DPM,… và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài.
Giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 12: thị trường lại rơi vào chu kỳ giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm ngày 10/12/2008.
Giai đoạn 2009: sự phục hồi ấn tượng của TTCK:
Nếu như 2008 được coi là một năm rất đáng quên khi các chỉ số liên tục sụt giảm thì bước sang 2009, TTCK VN đã có sự phục hồi tương đối ấn tượng, không ít thời điểm đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển với những ký lục mới. Có thể điểm lại một số cột mốc đáng ghi nhớ như sau: 24/02/2009, VNIndex đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, 22/10/2009 đã vươn tới đỉnh 624,10 điểm, mức cao nhất của thị trường sau 394 phiên giao dịch.
Năm 2009, quy mô TTCK phát triển mạnh mẽ. Đến hết tháng 11/2009, có 430 chứng chỉ quỹ được niêm yết, tổng giá trị vốn hóa lên 669 nghìn tỷ đồng. Thêm vào đó là hàng loạt các DN lớn lên sàn làm nguồn cung trên thị trường ngày càng đa dạng.
24 tháng 6, thị trường UpCOM: nơi giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết của các công ty đại chúng, được đặt tại SGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động.
Các công ty chứng khoán tung đòn bẩy tài chính hỗ trợ NDT.
Xét về tốc độ tăng trưởng, TTCK VN được coi là có tốc độ tăng trưởng rất cao, tới 60- 70% nhưng lại có không ít bất ổn. TTCK phục hồi nhưng không bền vững: Chỉ số VN Index giảm 22% từ đỉnh 633,2 điểm ngày 23/10 xuống mốc 490,6 điểm ngày 27/11. Khối lượng giao dịch từ tháng 11 đến hết năm sụt giảm mạnh. Càng về cuối năm, thanh khoản của thị trường càng trở nên đáng lo ngại.
Giai đoạn 2010:
TTCK từ đầu năm đến nay không có sự bứt phá nào đáng chú ý. Xu hướng chủ đạo vẫn là đi ngang và giảm điểm.
Nguyên nhân là do quá nhiều loại cổ phiếu được tung ra, thêm vào đó giá vàng trong nước và quốc tế liên tục tăng, các NĐT chuyển từ chứng khoán sang vàng để bảo toàn vốn.
Sau 10 năm, những gì đã đạt được của thị trường chứng khoán Việt nam khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên.
2 Sở giao dịch
1 thị trường UPCoM
Hơn 550 mã cổ phiếu niêm yết
105 CTCK, 46 công ty quản lý quỹ
Gần 1 triệu tài khoản giao dịch (khoảng 25% là của nhà đầu tư nước ngoài)
Trên 3.000 phiên giao dịch (tại HOSE là 2.327 phiên, HNX là 1.163 phiên) và tất cả đều diễn ra an toàn.
Chương III: Vai trò của thị trường chứng khoán trong 10 năm qua:
Tập trung tích tụ vốn cho thị trường
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43,7% vào năm 2007. Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP. Ước tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt khoảng từ 40-50% GDP.
Hoạt động phát hành huy động vốn trên TTCK thực tế chỉ mới phát sinh từ năm 2006 trở lại đây. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu và đến năm 2007, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ, khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động đạt gần 50.000 tỷ VND. Trong năm 2008, do sự suy giảm của TTCK, tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu. Tổng số vốn huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng.
Trong 5 năm trở lại đây, lượng vốn huy động qua TTCK đạt khoảng 300.000 tỷ đồng, riêng năm 2007, tổng giá trị huy động vốn qua TTCK đạt 127 nghìn tỷ đồng, đã góp phần quan trọng giúp Chính phủ và các doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, làm cho nền kinh tế bớt phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
Hiệu quả của quốc tế hóa TTCK
Chúng ta biết rằng việc mở cửa TTCK làm tăng tình lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài.
Theo các số liệu thống kê không chính thức (báo cáo của Ngân hàng ANZ) tổng mức đầu tư gián tiếp vào Việt Nam giai đoạn từ năm 2001 - 2006 ước đạt khoảng 12 tỷ USD và năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỷ USD), lĩnh vực hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài cũng có sự thay đổi.
Nếu như các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian những năm 90 chủ yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam với khung pháp lý chưa hoàn thiện, khu vực kinh tế tư nhân chưa phát triển, TTCK chưa được thành lập, cơ hội đầu tư còn ít, nên việc giải ngân vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn thì những quỹ đầu tư trong những năm sau này được thành lập do các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của TTCK Việt Nam cùng với chính sách cổ phần hóa các DNNN có quy mô lớn được đẩy mạnh thực hiện.
Tuy nhiên, sang tới năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền kinh tế Việt Nam, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có dấu hiệu chững lại và thậm trí đã có dấu hiệu dòng vốn đảo chiều trong nửa đầu năm 2008. Vốn đầu tư gián tiếp rút ra khỏi Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2009 lên tới 500 triệu USD và mặc dù những tháng cuối năm, dòng vốn có dấu hiệu phục hồi nhưng cả năm 2009 vào khoản 600 triệu USD (tương đương với dòng vốn rút ra của năm 2008).
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ phát hành huy động nguồn tài chính mà không tạo áp lực lạm phát. Chúng ta biết rằng Chính phủ đã không còn sử dụng biện pháp in tiền để tài trợ cho chi tiêu. Chính vì thế, TTCK đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của Chính phủ, với cả thị trường trong nước và quốc tế.
TPCP bằng ngoại tệ phát hành trong nước trong những đợt gần đây, đặc biệt trong năm 2009 đều không thu được kết quả như mong muốn, nguyên nhân chính là do vấn đề lãi suất không hấp dẫn. Đợt phát hành thứ nhất vào tháng 3/2009, 3 lần đấu thầu chỉ huy động được 230,11 triệu USD trong tổng số 300 triệu USD được đưa ra mời thầu. Đợt 2 vào tháng 8/2009, trái phiếu ngoại tệ kỳ hạn dài số lượng bỏ thầu rất ít. Trong đó, cả 3 phiên chỉ huy động được 100 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu chào bán kỳ hạn 1 năm; 47 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 2 năm; và 10 triệu USD/50 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 3 năm. Đợt phát hành thứ 3, và thứ 4 vào ngày 29/12/2009, kết quả chỉ huy động được 73 triệu USD trong tổng số 200 triệu USD giá trị trái phiếu gọi thầu, đạt 36,5%. Tỷ lệ huy động thành công có xu hướng giảm dần theo từng đợt phát hành kể từ đầu 2009 tới nay. Tính chung cả năm 2009, khối lượng huy động đạt 530,2 triệu USD (tương đương 9.278 tỷ đồng, theo tỷ giá ước tính 17.500 đồng/USD) trên tổng số 850 triệu USD gọi thầu
Đối với trái phiếu bằng nội tệ, việc huy động cũng còn nhiều hạn chế.
Tính đến hết năm 2009, có khoảng 70 đợt phát hành trái phiếu được thực hiện bao gồm trái phiếu: kho bạc nhà nước (KBNN), ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách xã hội và các trái phiếu chính quyền địa phương. Theo thống kê của Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam (BIDV), chỉ có trên 2.000 tỷ đồng giá trị trái phiếu KBNN được phát hành trên tổng số 15.000 tỷ đồng gọi thầu. Nguyên nhân do thị trường trái phiếu thứ cấp ảm đạm, thanh khoản ở mức thấp, thể hiện qua giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trên thị trường cũng như các số liệu thống kê giao dịch trung bình trong phiên. Tổng giá trị trái phiếu được chuyển nhượng qua sàn trong năm 2009 vào khoảng 77.500 tỷ đồng, chỉ bằng 40% so với mức 195.600 tỷ đồng của năm 2008. Giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trung bình trong một phiên giao dịch cũng giảm mạnh, xoay quanh mức 300 tỷ đồng/phiên, thấp hơn nhiều so với mức 800 tỷ đồng/phiên của năm 2008. Đặc biệt, trái phiếu chính quyền địa phương gần như không được quan tâm. . Trái phiếu kho bạc bằng Việt Nam đồng chỉ thành công với tỷ lệ 15%, một con số rất khiêm tốn.
Bước sang năm 2010, những tháng đầu năm tình hình cũng không khả quan hơn. Tinh đến ngày 28/5 Kho bạc nhà nước đã có 5 lần đấu thầu trái phiếu với khối lượng lớn nhưng đa số là thất bại, chỉ bán được khoảng 100 tỷ đồng. Ngân hàng Chính sách Xã hội 4 lần đấu thầu nhưng không bán được đồng nào, Ngân hàng Phát triển 3 lần đầu thầu cũng thất bại.
Tuy nhiên, từ tháng 5 đến nay, việc phát hành đã thu được thành công nhất định. Việc phát hành theo lô lớn đầu tiên trong năm đã diễn ra vào cuối tháng 5 , nửa đầu tháng 6.tổng khối lượng trái phiếu phát hành đợt này là 5.000 tỷ đồng với lãi suất danh nghĩa 11,33%, tiền lãi thanh toán hàng năm, chia làm 3 đợt. Đợt đấu thầu một và hai (28/5/2010 và 4/6/2010) giá trị gọi thầu tương ứng mỗi đợt là 2.000 tỷ đồng. Đợt thứ ba (11/6/2010) giá trị gọi thầu là 1.000 tỷ đồng. Kết quả đợt thứ nhất đã không thành công. Hai lần sau tổng số tiền huy động được là hơn 2300 tỷ, cụ thể là:
04/06/2010 như sau:
STT
Nội dung
5 năm
1
Loại trái phiếu
Trái phiếu Chính phủ
2
Ngày phát hành
08/06/2010
3
Ngày đáo hạn
01/06/2015
4
Lãi suất danh nghĩa
11.33%/năm
5
Mệnh giá
100.000 đồng/trái phiếu
6
Tổng khối lượng gọi thầu
2.000 tỷ đồng
7
Tổng số thành viên tham gia đấu thầu
04 thành viên
8
Tổng số phiếu đăng ký đấu thầu hợp lệ
04 phiếu
9
Tổng số tiền đăng ký đấu thầu hợp lệ
3.300 tỷ đồng
10
Lãi suất đăng ký thấp nhất
11.10%/năm
11
Lãi suất đăng ký cao nhất
11.50%/năm
12
Lãi suất trần
11.20%/năm
13
Lãi suất trúng thầu
11.20%/năm
14
Khối lượng trúng thầu
1200 tỷ đồng
15
Tổng số tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu
1.208.194.028.244 đồng
11/06/2010 như sau:
STT
Nội dung
5 năm
1
Loại trái phiếu
Trái phiếu Chính phủ
2
Ngày phát hành
15/06/2010
3
Ngày đáo hạn
01/06/2015
4
Lãi suất danh nghĩa
11.33%/năm
5
Mệnh giá
100.000 đồng/trái phiếu
6
Tổng khối lượng gọi thầu
1.000 tỷ đồng
7
Tổng số thành viên tham gia đấu thầu
11 thành viên
8
Tổng số phiếu đăng ký đấu thầu hợp lệ
13 phiếu
9
Tổng số tiền đăng ký đấu thầu hợp lệ
4950 tỷ đồng
10
Lãi suất đăng ký thấp nhất
11.00%/năm
11
Lãi suất đăng ký cao nhất
11.50%/năm
12
Lãi suất trần
11.05%/năm
13
Lãi suất trúng thầu
11.05%/năm
14
Khối lượng trúng thầu
1000 tỷ đồng
15
Tổng số tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu
1.014.405.357.487 đồng
Lần thành công gần đây nhất khi phát hành trái phiếu chính phủ là vào ngày 14/10 vừa qua với gần 6000 tỷ đồng trái phiểu đã được bán hêt: Sở GDCK Hà Nội thông báo kết quả đấu thầu trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành, được tổ chức vào ngày 14/10/2010 như sau:
STT
Nội dung
3 năm
5 năm
10 năm
1
Loại trái phiếu
Chính phủ
2
Ngày phát hành
18/10/2010
3
Ngày đáo hạn
18/10/2013
18/10/2015
18/10/2020
4
Mệnh giá
100.000 đồng
8
Tổng khối lượng gọi thầu
2.500 tỷ đồng
2.500 tỷ đồng
1.000 tỷ đồng
9
Tổng số thành viên tham gia đấu thầu
13 thành viên
15 thành viên
4 thành viên
10
Tổng số phiếu đăng ký đấu thầu hợp lệ
14 phiếu
15 phiếu
4 phiếu
11
Tổng số tiền đăng ký đấu thầu hợp lệ
2.985 tỷ đồng
4.785 tỷ đồng
900 tỷ đồng
12
Lãi suất đăng ký thấp nhất
9,50%
10,19%
10,79%
13
Lãi suất đăng ký cao nhất
9,80%
10,45%
10,90%
14
Lãi suất trần
9,65%
10,29%
10,80%
15
Lãi suất trúng thầu
9,65%
10,29%
10,80%
16
Khối lượng trúng thầu
2.135 tỷ đồng
2.485 tỷ đồng
850 tỷ đồng
17
Tổng số tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu
2.135 tỷ đồng
2.485 tỷ đồng
850 tỷ đồng
Tuần trước đó, ngày 7/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 6.000 tỷ đồng trái phiếu với các kỳ hạn 3, 5 và 10 năm; huy động được 3.965 tỷ đồng với lãi suất trúng thầu ở các kỳ hạn lần lượt là 9,68%, 10,3% và 10,8%/năm.
Như vậy có thể nói TTCK đã tạo ra một kênh huy động vốn khá tiềm năng cho Chính phủ, cung cấp lượng vốn đáng kể cho việc đầu tư cũng như thực hiện các chính sách tiền tệ của nhà nước.
4. Một trong những vai trò của TTCK là cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kì kinh doanh trong tương lai (hay nói cách khác là hàn thử biểu của nền kình tế. Tuy nhiên khi xem xét vấn để này cần nhận thức một điều là TTCK Việt Nam chưa phải là hàn thử biểu của nền kinh tế. Lý do được đưa ra là:
TTCK Việt Nam chỉ được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế khi đo lường được "sức khỏe" của toàn bộ nền kinh tế, chỉ số của thị trường phải thể hiện chu kỳ phát triển của nền kinh tế, từ đó tạo mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ giữa TTCK và thị trường tài chính. Nó phải đáp ứng đủ 3 yếu tố chính sau:
Quy tụ đầy đủ DN lớn tiêu biểu của mọi ngành nghề
Một trong những yếu tố bắt buộc để TTCK Việt Nam trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế, đó là thị trường phải chứa đựng những DN lớn tiêu biểu cho mọi ngành nghề, đại diện cho một nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo thống kê, hiện nay, TTCK Việt Nam có 289 DN niêm yết. Con số này còn quá ít so với con số hàng trăm nghìn DN thực tế đang hoạt động. Mặt khác, các DN niêm yết chủ yếu là những DN nhỏ và vừa, chưa phải là những DN lớn có sức chi phối nền kinh tế...
Về mức vốn hóa của thị trường, năm 2007 đạt khoảng 40% GDP. Song đến thời điểm hiện tại, TTCK đang suy giảm từng ngày, thì mức vốn hoá thị trường cũng giảm đi tương ứng. Trong khi đó, theo kế hoạch Chính phủ đặt ra, tới năm 2010, tỷ lệ vốn hóa TTCK phải chiếm 50% GDP và con số này phải tăng đến 70% vào năm 2020. Khi đó, quy mô thị trường mới đủ lớn để có thể đưa TTCK thực sự trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
Giá chứng khoán phản ánh tương đối chính xác giá trị thực của DN niêm yết
Một thực tế hiện nay là phần lớn con số tính toán về giá trị thực của cổ phiếu đều chỉ sử dụng một cách máy móc những số liệu ghi trên báo cáo tài chính của các DN niêm yết; chưa thể hiện được đầy đủ giá trị nội tại của DN mà nó phản ánh. Ngoài ra, sự kém minh bạch còn phổ biến, kèm theo đó là những yếu tố thuộc về tài sản vô hình của công ty (trình độ quản lý, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm...) chưa phản ánh hết trong báo cáo tài chính.
Mặt khác, sự thiếu kiến thức và tâm lý đám đông của NĐT đã và đang tác động mạnh mẽ tới TTCK. Tâm lý "phải tháo chạy bằng mọi giá" đã đẩy chỉ số VN-Index xuyên thủng 400 điểm. Rõ ràng, tâm lý NĐT chứ không phải phương pháp xác định hay hoạt động kinh doanh của DN quyết định giá chứng khoán.
Phản ánh tương đối chính xác sự biến động của nền kinh tế
Hai năm qua, chúng ta đã chứng kiến những bước thăng trầm của TTCK Việt Nam. Ngày 8/11/2006, VN-Index xuất phát với mức 525,99 điểm, chỉ 4 tháng sau (ngày 12/3/2007) VN-Index đã leo lên tới đỉnh 1.170,67 điểm, để rồi hiện tại VN-Index đã quay trở lại và thậm chí phá mốc 400 điểm. Tất nhiên, lên xuống là chuyện bình thường của thị trường, nhưng lên xuống với biên độ lớn trong thời gian ngắn là bất thường. Và điều này có phản ánh chính xác sự biến động của nền kinh tế hay không?
Câu trả lời là không! Dễ dàng nhận thấy, từ cuối năm 2007 đến nay, VN-Index đã giảm quá sâu, bất chấp những thông tin rất tốt về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của đại đa số công ty niêm yết trên sàn, bất chấp nỗ lực chống lạm phát đã có kết quả bước đầu của Chính phủ.
Ngoài ra, nếu nền kinh tế Việt Nam chủ yếu có 4 kênh đầu tư: TTCK, thị trường tín dụng trung và dài hạn, thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ thì trong thời gian qua, sự ảm đạm của TTCK dường như cũng chưa ảnh hưởng nhiều tới các thị trường còn lại, nếu có, thì cũng chỉ như sự ảnh hưởng của một hàng hóa này tới một hàng hóa thay thế khác. Nhìn vào TTCK, chưa thấy được bức tranh khái quát của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, rõ ràng VN-Index hiện chưa phải là hàn thử biểu của kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những vai trò trên, có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế. Trước hết là nói đến vấn đề thông tin không cân xứng. Ở Việt Nam hiện nay có thể nói thông tin được chuyển đến các nhà đầu tư là không đầy đủ và không giống nhau. tình trạng tùy tiện trong công bố thông tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác, không trung thực đang gây bức xúc cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý.
Vẫn có những hoạt động làm giá, thao túng cổ phiếu, thao túng thị trường khiến cho nhà đầu tư (NĐT) bất an, họ rất ngại trong việc đầu tư giá trị, mà dần dần chuyển sang lướt sóng nhiều hơn.
Hiện trạng sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích. Hoạt động phát hành của các công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên TTCK để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm. Hoạt động chào bán riêng lẻ không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và quản lý của các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK. Bên cạnh đó, việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký với UBCKNN còn hạn chế (đặc biệt vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban hành) đã tạo nên những rủi ro tiềm ẩn cho TTCK. Hoạt động phát hành TPCP còn nhiều bất cập, công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu còn nhiều bất cập, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường TPCP đúng nghĩa để đảm bảo thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp. Thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm.
Tuy nhiên, theo nhận định, sau 10 năm phát triển, thị trường CK Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam, góp phần tăng trường kinh tế, gia tăng thu nhập cho người dân.
Chương IV: Bìn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_2_vai_tro_1967.doc